HẠT NHỚ THÁNG BA
Buổi sáng thức dậy, ngoài vườn
những bông ngọc lan đã bắt đầu hé nở, những giọt sương nhỏ còn long lanh trên
lá, mảnh trăng hạ tuần lơ lửng trên bầu trời còn nhuốm chút ánh đêm. Mùa hè hình như đã hết, ngày đã dần dần ngắn
lại và những cơn nắng địa cực đã bắt đầu bớt chói chang. Tháng ba rồi đó em, em có nghe ngơ ngẩn như
tôi, như những người đã bắt đầu luống tuổi, để nuối tiếc những ngày tháng trôi
đã quá nhanh dù không biết nếu ngày tháng chậm lại sẽ làm những gì cho ngày bớt
đi trống trải.
Một tối tháng ba 75, khi nghe
tin Ban mê thuột thất thủ, em đã thảng thốt nói với tôi là sợ Ðà lạt sẽ mất
theo, cái lo sợ tưởng viển vông đã lớn dần theo từng ngày qua đi trong tháng ba
75 và thành sự thật để cho bao cuộc đời chợt trở nên trôi nổi. Vậy là đã gần ba mươi năm qua rồi đó, một thời
gian không đủ dài để có thể chôn vùi những kỷ niệm xưa cũ và những u buồn quá
khứ.
Tháng ba, hình như tôi đã chẳng
còn nhớ đây là mùa hoa gì trong những thành phố cũ. Tháng này có phải con đường Nguyễn Du vẫn phủ
ngập lá me xanh và con đường Cộng Hòa trước trường Khoa học đã bắt đầu óng ánh
màu hoa vàng của những cây điệp hai bên.
Hà nội chắc vẫn còn đang ẩm ướt trong cái rét nàng Bân. Và Ðà lạt, những cây đào, cây mai chắc cũng
đã ngợp xanh bóng lá. Ðã có một lần tôi
trở về thành phố xưa nhưng tất cả hình như bỗng trở thành lạ lẫm. Các sườn đồi thoai thoải với những ngôi nhà
nhỏ e ấp dưới những rặng thông hay sau những rặng quỳ vàng rực đã không còn nữa. Thành phố khoác cái nét lởm chởm của những
ngôi nhà xây cất vội vã, của những nhà nghỉ và quán ăn. Ðà lạt của tôi giờ chỉ còn là một nỗi nhớ muộn
màng trong tiếng thở dài mênh mang như hơi thở mùa đông.
Buổi sáng hôm nay, tôi chợt nhớ
ánh mắt trong xanh của em năm nào và tà áo trắng rạng rỡ tung bay dưới hàng cây
khuynh diệp của ngôi trường ngói đỏ. Bầu
trời mênh mang làm tôi chợt nhớ bài Năm Hai ngàn năm một lần nghe em hát trong
khuôn viên đại học. “Năm hai ngàn năm
anh trở về...”. Lúc đó, năm 2000 như một
ngày tháng nào xa xôi lắm, vậy mà ngày đầu tiên của tân thế kỷ giờ đã như gần
vào quên lãng, cứ năm cũ qua năm mới đến, thu đi đông về, xuân tàn hạ tới. Mới bắt đầu năm mới nay đã lại tháng ba; như
vậy là quý đầu của một năm đã sắp hết, và ba quý kia chắc cũng sẽ lại vút qua
thật nhanh như một cánh én vụt vào bầu trời mông mênh vô tận. Ngày tết vừa mới qua đây thôi mà sao đã
như là lâu lắm. Tháng ba, buổi sáng đầu ngày chợt gập những
ngỡ ngàng khi những chiếc lá vàng nhỏ đã bắt đầu bay theo những cơn gió nhẹ
nhàng buông mình trên những thảm cỏ xanh.
Thời gian sao nay đi nhanh quá, chẳng trách tôi đã chẳng tìm lại được em
giữa những người không quen, chưa quen hay giữa những người quen nay trở thành
hờ hững. Nhưng mà hình như tôi cũng chẳng
tìm thấy lại được chính mình trong những quay cuồng của đời sống. Tôi đang đi trong một thành phố dù đã ở lâu
nhưng vẫn còn xa lạ, giữa hàng người mênh mang vội vã. Hình như dáng đi của tôi cũng đã trở nên lạ lẫm
và những suy nghĩ hành động cũng đã chẳng
còn là của chính mình. Vậy thì làm sao
tôi tìm thấy em khi chính tôi cũng đã chẳng nhận ra được chính tôi. Bắt đầu đời sống mới khi tuổi ngoài 30 thật
không dễ dàng gì hòa nhập, dù ở một đất nước mới như tôi, và dù ở ngay trong đất
nước mình trong một xã hội mới như em.
Vì vậy cả tôi, cả em, hình như mình đã đánh rơi bóng dáng mình đâu đó
trên con đường kiếm sống. Giờ này em ở
đâu khi thành phố đã quá nhiều thay đổi và đơn vị ngày tháng bắt đầu tính theo
từng năm, hay chục năm kể tự bao giờ.
Những buổi sáng nắng, những buổi chiều mưa, tôi vẫn đi và tìm hoài hình ảnh
xa xưa của em. Mái tóc xõa dài bay bay
theo gió, ánh mắt rạng rỡ sáng trong và nụ cười hồng ngát hương ngọc lan thơm
ngát. Cây ngọc lan sáng nay đã nở, những
bông hoa nuột nà làm tôi lại thêm nhớ em ray rứt, em đang ở đâu, những hi vọng
và ước mơ của tôi, những tin yêu vào cuộc đời và những hăng hái bước vào cuộc sống
của tôi. Cứ tìm đi, rồi sẽ có một ngày
mình lại gặp được nhau, phải không em.
Hay hãy cố nghĩ em là một người nào đó đang đi bên tôi hôm nay, một người
nào đó có nụ cười của em, một người nào đó có ánh mắt của em. Hãy cố lắng nghe trong những cơn gió, hình
như có tiếng cười lảnh lót của em. Hãy cố
nắm bắt những hạt sương đêm mang ánh mắt long lanh của em. Và hãy đưa tay hứng những chiếc lá vàng nhỏ
nhoi vì hình như, chúng đang rơi xuống từ bờ vai em. Màn đêm buông xuống, huyền hoặc như mái tóc em ngát thơm mùi dạ
lý. Ngày bắt đầu lên, rực rỡ như những
giấc mơ em vẫn kể cho tôi. Hình bóng
em, như vậy hình như vẫn thấp thoáng quẩn quanh, và như vậy, tôi đâu có mất em
vì em vẫn ở đây, bên tôi, dịu dàng, trong sáng như ngày nào để hồn tôi dịu lại
sau những nóng bỏng nghĩ suy. Thế là
tôi đã tìm lại được em, phải không em yêu dấu....
Thiên Hương
1/3/02
CHẬP CHÙNG THOÁNG NHỚ
Tháng mười một,
mùa đông lẽ ra phải hết từ lâu. Đường
phố đã vắng hẳn những bóng hoa đào hồng rực hay màu mimosa vàng óng, vậy mà sao
cái lạnh cắt da vẫn còn ùa tới và những buổi chiều rời sở trời vẫn còn tối sẫm
với những cơn mưa lạnh buốt lê thê. Ngày
vẫn còn rất ngắn vậy mà những buổi sáng đã bắt đầu ngẩn ngơ khi ngước nhìn
những đường phố rợp những hàng cây xanh mềm bóng lá. Trong các mall đã bắt đầu ngập quần áo mùa
xuân, mùa hạ. Các hàng hiệu đã thấp
thoáng những cây thông và hàng hóa Giáng sinh.
Một năm đã lại
sắp hết, sao ngày tháng trôi đi nhanh quá, chiếc lá này chưa kịp xanh chiếc lá
khác đã nhạt nhòa. Mùa này chưa qua, mùa
khác đã vội tới, nên những tuổi đời cũng giục giã tàn phai.
Mới buổi sáng
tỉnh giấc, đi trong làn sương mỏng, lớp sương mù hình như chưa tan hết đã thấy
sương chiều rải rác quanh đây. Những
buổi chiều, sao tôi vẫn sợ những buổi chiều như thế. Lạnh, mưa và ướt át. Đường phố giờ tan sở ngập bóng người đi vội
vã. Những bóng người dưới trời mưa lạnh
hình như đã tan đi phần nào sinh khí, chỉ còn tiếng gót giày khua trên bờ phố
và những khuôn mặt mệt mỏi sau gìờ làm việc.
Những bóng người đi bên cạnh tôi đã bao ngày nhưng vẫn không một lần
thoáng hiện niềm vui khi nhìn thấy nhau.
Những khuôn mặt lạnh lẽo như bằng sáp, đủ để cho những cơn gió sắt se
lạnh lại càng thêm hiu hắt.
Tôi bước vội
xuống escalator đi vào ga xe lửa. Trên
những platforms buổi chiều vẫn đông người, nhưng ai nấy như đắm chìm trong một
suy nghĩ nào đó, hoặc dán chặt mắt vào những trang báo hay cuốn sách đọc dở
dang. Thỉnh thoảng tiếng loa phóng thanh
lại vang lên báo hiệu tuyến đường xe lửa sắp tới, màu đèn sáng lòa đường hầm,
môt số người vội vã bước lên, tiếng còi hú dài và những con tàu lại lăn
đi. Đã bao buổi chiều như thế, đã bao
buổi chiều tôi đứng nhìn đoàn nguời lên xuống, đã bao chuyến tàu chợt đến chợt
đi, đã bao lần tôi cũng bị quấn hút vào đám người lạ lẫm và lạnh lẽo đó, để lên
những chuyến tàu, tiếp tục chìm đầu vào trang sách hay báo, hay lặng lẽ nhìn
những hàng cây, đường phố trôi lại phía sau.
Cuộc đời đều đặn, nhàm chán đến rợn người. Thèm biết bao nhiêu được gặp lại một bóng
người quen hay một nụ cười thân thịện.
Đường hầm lại
rực sáng, tiếng loa phóng thanh lại rồn rã, một chiếc xe lửa lại trờ tới, đoàn
người lại vội vã lên xe. Giữa đám đông
xa lạ ấy, hình bóng hai phụ nữ Á châu bé nhỏ, thoáng đập vào mắt. Ở khu vực trung tâm thành phố này, số đàn bà
Á châu đi làm thật tương đối hiếm hoi.
-
Thôi Hằng về nha, mai Trúc gọi lại Hằng nha.
Giọng nói thánh
thót làm tôi giật bắn người, cái tiếng Bắc trong trẻo này, cái tên Trúc dễ
thương kia như đang gợi một hình ảnh nào tôi đã mất từ lâu lắm. Chiếc tàu đã đi qua, người phụ nữ còn lại
đứng một mình trên sân ga, cô ta quay lại đến ngồi trên băng ghế cạnh tôi. Khuôn mặt bầu bĩnh, có lẽ đã ngoài ba mươi,
nhưng thật dịu dàng và thuần khiết, đôi mắt và khóe miệng vẫn còn long lanh nụ
cười, và trời ơi. Hai lúm đồng tiền xinh
xinh ở một khóe môi bên phải, một lớn một nhỏ làm tim tôi thắt lại
-
Phải Thủy Trúc em của anh Mai không?
Người phụ nữ
nhìn tôi, ánh mắt dọ hỏi, nhưng vẫn dịu dàng:
-
Thủy Trúc đây, anh là bạn anh Mai?
-
Linh đây, Linh bạn anh Mai. Anh Mai giờ ở đâu?
-
Anh Linh ạ?
À, em nhớ rồi, hồi xưa anh học lớp với anh Mai, hay lại chơi với anh Mai
phải không ạ? Anh em giờ ở Mỹ.
-
Anh Mai vợ con gì chưa?
-
Dạ, anh ấy lấy vợ muộn nên giờ hai đứa con còn nhỏ xíu.
Rồi Trúc cười,
hai lúm đồng tiền lại sâu xuống xoáy mạnh hồn tôi đau nhói.
-
Không như em, bữa nay làm bà ngoại rồi anh.
-
Bà ngoại, không thể tưởng được, nhìn Trúc ai cũng nghĩ chỉ ngoài
30
-
Cám ơn anh, không trẻ vậy đâu anh, tại em lấy chồng sớm quá, với lại cũng gần 50
rồi anh.
Lại một chuyến
xe lửa trờ tới, đúng tuyến đường của tôi.
Trúc đứng lên chào:
-
Xe lửa của em tới rồi, chào anh ạ.
-
Xe tôi cũng chuyến này.
Tôi và Trúc
cùng lên xe. Trên xe Trúc cho tôi biết
hai vợ chồng mới dọn về khu này, hai cháu gái đã có gia đình cả nên hai vợ
chồng mua cái appartment nhỏ ở gần con cho tiện. Giọng nói Trúc hồn nhiên, vui vẻ. Người con gái thẹn thùng ngày nào đã thành
một thiếu phụ thật duyên dáng và vẫn còn giữ được nét son trẻ ngày xưa. Trúc xuống trước tôi hai ga, nhìn dáng Trúc
nhỏ nhoi đi lẫn vào dòng người, lòng tôi chùng xuống, một thoáng nhớ thật xa
xôi, nhập nhoà theo một dáng người thật gần gũi, nhưng cũng xa vời vợi. Tôi chợt nhớ ra mình đã quên hỏi địa chỉ và
điện thoại của cô, hình như tôi vẫn còn ở trong giấc mơ chứ không hoàn toàn
hiện hữu. Tôi xuống xe lửa, đi chậm rãi
về căn nhà nhỏ của mình. Trời buổi chiều
vẫn xám và đang tối dần, nhưng trong tôi, ánh nắng đầu ngày hình như đã lại đi
lên, đủ soi sáng cây thủy trúc trước cửa nhà lấp lánh, một màu xanh nhẹ nhàng
cho những thoáng nhớ không tên nhưng chập chùng dịu vợi…
xxx
Tôi biết Trúc
đã từ lâu lắm. Học cùng trung học với
Mai, anh của Trúc. Ngày ấy còn ở Đà lạt,
cái thành phố mà bây giờ đã bao năm tôi vẫn còn nhớ cái nét dịu dàng của
nó. Cái thành phố mà mỗi nét vẫn là một
yếu tố trong những quyết định của cuộc đời, từ việc chọn thành phố sinh sống,
đến mua căn nhà ở, hình như tôi vẫn cố tìm lại những khung cảnh ngày xưa, nơi
có những hàng thông hay những sườn đồi xanh thoai thoải…
Ngày xưa, thỉnh
thoảng lại chơi với Mai, Trúc hay ra mở cửa.
Cô bé xinh xắn với hai con mắt tròn to lấp lánh, khe khẽ mỉm cười làm
hai chiếc lúm đồng tiền trên má phải lúm sâu, khẽ chào và quay đi để chúng tôi
nói chuyện với nhau. Hoặc cô xuống bếp,
hoặc lặng lẽ ngồi học ở chiếc bàn trong cùng phòng. Mái tóc đen thường xõa dài trên đôi vai
nhỏ. Cô và Mai hoàn toàn không hay biết
là dáng dấp và hình ảnh của cô đã theo tôi suốt bao nhiêu ngày tháng. Có một lần tôi đến nhà và cùng Mai đi
học. Hôm ấy cô cũng có giờ học nên Mai
chở cô đến trường. Nhìn cô nhẹ nhàng
trong chiếc áo dài trắng, và chiếc áo len xanh.
Mái tóc buộc túm lên lộ khuôn mặt bầu bĩnh, với nước da trắng hồng của
con gái Đà lạt, tôi ngẩn ngơ nhìn. Trong
lúc Mai loay hoay đẩy xe ra cổng, cô cúi xuống khóa trái cửa, tôi tự dưng như
không bước đi được, tôi lặng đứng nhìn cô.
Cô vẫn cúi đầu vặn khóa nhưng có lẽ cô biết, nên tôi thấy từ má cô những
tia máu đỏ rất nhỏ từ từ xuất hiện làm đôi má cô càng thêm hồng. Cô vẫn cúi mặt dù cửa đã khoá xong, chưa bao
giờ tôi đứng gần cô đến thế, mùi thơm nhè nhẹ từ người cô làm tôi ngây ngất. Tôi muốn bước đi, nhưng chân cứ chôn chặt ở
đấy. Mai đã nổ máy xe, vẫn nhẹ nhàng cô
quay người, khẽ nhẹ mỉm cười, trên má lại lúm sâu hai lúm đồng tiền xinh
xắn. Cô thoăn thoắt bước ra ngồi sau
Mai. Tôi chạy xe chầm chậm phía sau,
người bồng bềnh, lặng nhìn chiếc xe đằng trước của hai anh em Mai. Trời Đà lạt hôm ấy rất xanh và rất
trong. Xe qua hồ Xuân Hương, hai tà áo
dài của cô bay nhẹ trong gió, cái gió dịu dàng của một ngày xuân đẹp. Dáng cô nghiêng nghiêng, tôi ước gì có một
lần được chở cô như thế, để cô cũng nghiêng đầu, người cô cũng dựa nhẹ vào lưng
tôi như thế. Những sợi tóc của cô theo
gió mơn man trên gáy, trên vai tôi, và mùi thơm của cô theo cơn gió phảng phất
mãi bên người. Mai đưa cô đến trường, cô
cười với anh và quay lại khẽ gật đầu chào tôi.
Cả ngày hôm ấy tôi ngơ ngẩn.
Từ đó, trong
giấc ngủ, dáng cô vẫn hiện về, với nụ cười nhẹ nhàng và hai lúm đồng tiền sâu
bên má phải. Từ đó, tôi vẫn bắt gặp mình
hay chạy xe dọc theo đường hồ, vòng qua tia phun nước, lên dốc Bồ đề, chạy để
nhớ cái dáng nghiêng nghiêng, với chiếc áo len xanh, tà áo dài trắng. Đã bao nhiêu năm, cái màu trời xanh, màu hồ
xanh, những hàng thông rì rào, những rặng qùy vàng ối đã đi theo trí nhớ của
tôi qua bao chặng đường.
Thủy Trúc,
người con gái ngày xưa đã trở về, nhưng rồi tôi lại vẫn mất em, vì có bao giờ
tôi nắm giữ được em, hở em yêu dấu. Tôi
chỉ có thể trồng những cây thủy trúc dọc theo những lối đi, để chiều chiều trở
về, lòng dịu lại sau những giờ làm việc mệt mỏi, để nhớ đến em cũng như nhớ đến
khung trời Đà lạt ngày xưa, đã ươm mơ
cho những giấc mơ của tôi.
Hái nụ hoa xanh lòng ngại ngần muốn hỏi
Mơn nhẹ đóa hồng muốn khẽ nói yêu ai
Chỉ sợ ngữ ngôn xóa mất nét trong ngần
Ðể đôi mắt đó không còn thơ ngây như trước
Em đừng xõa tóc trong những chiều nhạt nắng
Ðừng khẽ thở dài cho nắng bỗng ngừng trôi
Ðừng để mắt môi nói lên tiếng đợi chờ
Và đừng để tim tôi mềm trong gió
Tôi gửi đến em một chút tình trong vắt
Một nụ cười hồng mang chút nét trẻ thơ
Một chút dễ thương của ánh nắng dịu dàng
Ðể giây phút này vẫn luôn còn sống mãi…
Ngày ấy, vì yêu Thủy Trúc, tôi đã thành thi sĩ từ lúc nào không
biết, tối tối tôi viết những vần thơ cho cô, viết mà không bao giờ dám gửi. Gặp cô ở nhà Mai, cũng không dám nói chuyện
gì, chỉ biết tôi siêng lại nhà học chung với Mai hơn. Hai anh em cô học rất giỏi, Mai lại rất tốt,
kiên nhẫn giảng cho tôi những bài tóan khó.
Nhiều lúc lại nhà, cô có bạn đến học cùng, nghe tiếng cô thánh thót nói
chuyện với bạn, tôi như ngây ra chẳng suy nghĩ được gì, Mai cứ phải giảng đi giảng
lại. Có lần, Mai bắt gặp trong vở tôi
bài thơ tôi viết trong lúc nghĩ đến cô, Mai cười: Cái thằng này bữa nay bắt đầu mê gái rồi hở,
mày mê ai nói cho tao hay được không.
Tôi chỉ biết đỏ mặt chống chế.
Mai cầm bài thơ của tôi, đọc to:
Anh theo em dọc theo con dốc nhỏ
Hoa quỳ vàng rực rỡ áo trắng em bay
Thành phố mù sương lãng đãng chút mây hồng
Tình anh đó theo tấm áo học trò bay bỡ ngỡ
Anh viết những vần thơ vào chiếc lá làm quen
Song không dám trao sợ tia mắt ai cười
Hay hờ hững làm hồn anh
nát mất
Anh vẫn theo em trong những sáng nắng mùa xuân
Tình nhút nhát nên không thành lời âu yếm
Chỉ biết nhìn theo dáng nhỏ ngọt ngào
Tóc đen mướt xõa dài trên áo trắng
Rồi những sáng mùa thu anh vội vàng đến lớp
Lỡ bỏ quên chiếc lá ở sân trường
Gió mơn man nhẹ thổi chiếc lá vàng
Rơi trên tóc em như nụ hôn anh thầm gửi đến
Mai cười khanh khách: Thằng
này làm thơ cũng được đấy chứ. Lý ra mày
phải đi ban C chứ sao theo ban B?
Tôi chỉ muốn độn thổ, không dám nhìn Trúc ở chiếc bàn học trong
góc phòng. Mai lại nghiêm trang
nói: Lo học đi, năm nay mà rớt là đi
lính đó, đừng thơ thẩn nữa.
Ngày hôm đó Mai kiểm soát chỉ bài cho tôi rất kỹ nhưng tôi hấp
thụ rất ít, cả tâm trí để cả vào Trúc, tôi muốn biết thái độ của cô khi nghe
bài thơ ấy. Nhưng tôi không dám nhìn về
phía cô, lúc Mai ra khỏi phòng, tôi quay lại thì ra cô đã vắng mặt từ lúc nào.
Sau đó vài tháng, cả gia đình Mai về Sàigòn, ba Mai chuyển công
tác về đó. Tôi cũng mất liên lạc với gia
đình Mai luôn. Tôi ở lại Đà lạt, xong tú
tài lên đại học. Những buổi chiều nhớ
Trúc, tôi vẫn chạy xe chầm chậm lên dốc nhà Mai, qua bờ hồ, qua dốc Bồ đề, nhìn
những bụi qùy vàng óng, nhìn bầu trời xanh thẳm mà nghe lòng dâng một nỗi nhớ
mông mênh.
Có những ngày mưa, trời chiều Đà lạt sương mù lướt thướt, trong
màn mưa nhìn cặp Lê Uyên Phương dìu nhau dưới chiếc dù đen. Lê Uyên lúc đó đẹp lắm, dáng thanh mảnh trong
chiếc áo khoác màu kem nhạt, khoác tay chồng đi chầm chậm dưới mưa dọc theo bờ
hồ. Hai người đi trong mưa, nhưng hình
như không biết đến những cơn mưa ướt và gió lạnh. Tôi ước gì một lần, được dìu Trúc đi trong cơn
mưa như thế, Trúc cũng sẽ níu lấy cánh tay tôi, hai đứa đi giữa mưa lạnh nhưng
trong lòng vẫn đầy ấm áp.
ước
gì trời đổ mưa rào
cho
chung đôi bước, che chung cây dù
trên
trời dù có mây mù
nhưng
bên nhau vẫn ngất người đê mê
cho
dù đời có ê chề
bên
nhau vẫn thấy ấm lòng ngất ngây
cho
em má đỏ hây hây
mắt
long lanh sáng,
thì
thầm yêu anh
Nhiều hôm vào quán café của Lê Uyên và Phương, nghe hai người
hát, nhìn ánh mắt ho nhìn nhau, những lời ca trữ tình như tình thêm theo làn mắt
đắm đuối của họ. Những lời hát mang chút âm hưởng đau thương nên lúc đó có tin
đồn Phương sắp chết vì ung thư gì đó. Thấy
cuộc tình của họ, lòng tôi gợn lên nỗi xót xa.
Ước gì có một người yêu mình như thế, chết cũng không uổng một đời. Yêu nhau thế, nhưng sau qua Mỹ, nghe nói cuộc
tình giữa hai người cũng tan vỡ. Nhưng
trên những đường phố Đà lạt, vẫn còn in những dấu chân của hai người, của một
thời yêu thương say đắm.
Thời thế đổi thay, tôi cũng bước chân qua Úc, làm lại cuộc đời
lúc tuổi đã gần ba mươi. Tôi đã bao lần
bước đi trong nắng, nghĩ đến Trúc; tôi đã bao lần bước đi trong mưa, nghĩ đến
Trúc. Đã bao đêm nhìn trăng lên, nghe
sương xuống, nhớ đến vùng trời Đà lạt của một thời ngây thơ tuổi nhỏ, nhớ đến mối
tình đầu đời trắng trong thuần khiết như lụa trắng tinh nguyên.
Đã có lần về Đà lạt, nhìn lại thành phố đã thay hình biến dạng,
chỉ còn con đường bờ hồ là ít thay đổi.
Dốc Bồ đề, Võ Tánh, con đường trước trường đại học và Bùi thị Xuân đã
hoàn toàn khác hẳn. Những cửa hàng hiệu
xô bồ tràn lan trên đường phố. Những con
người Đà lạt ngày xưa đã biến đi đâu mất.
Tôi vòng lên ngõ nhà Trúc, mong được nhìn lại khung cửa ngày xưa đã một
lần tôi đứng cạnh cô để nhìn cô nghiêng người khoá trái cửa. Nhưng căn nhà ấy đã không còn nữa. Nguyên con đường đã đầy các nhà nghỉ và những
tiệm bán buôn.
Ðàlat
ơi, một lần về, một lần mất mát
Một
lần về còn ôm mãi niềm đau
Những
xót xa hiu quạnh đến không ngờ
Vì
chốn cũ nhưng không còn xưa cũ
Ðàlat
ơi, ngày trở về tôi khóc
Tôi
tìm hoài những phố nhỏ ngày xưa
Những
rặng cây loáng thoáng bóng qùy vàng
Hàng
dâm bụt ngả nghiêng chiều lộng gió
Ðàlat
ơi, còn mong chi mà nhớ
Phố
phường chừ không bóng dáng ai quen
Căn
nhà xưa cũng đổi dáng đổi hình
Tôi
đứng đó nhưng dường như mất hút
Vậy mà hôm nay, tình cờ tôi lại gặp Thủy Trúc. Thời gian hình như không mang lại nhiều dấu ấn
trên em, người con gái dịu dàng với tâm hồn trong trẻo ngày xưa. Cái giọng nói Bắc lai lai thánh thót của Đà lạt
ngày xưa đã hơi trầm xuống nhưng lại nồng nàn và ngọt dịu hơn. Yêu em đã bao năm, mới được môt dịp ngồi gần
em đến như thế, mới được một lần nói chuyện với em như thế, được một lần đối mặt
để nhìn thấy hai con mắt của em vẫn sáng long lanh, một màu long lanh huyền ảo,
vẫn to tròn tinh anh, và đôi má vẫn còn hồng mịn với hai lúm đồng tiền trên má
phải. Thủy Trúc, tôi đã gặp lại em để rồi
lại để em bước đi, vì trong đời tôi có bao giờ tôi đã nắm giữ được em. Em chỉ là một tình yêu dịu ngọt, của mối tình
đầu học sinh tưởng thoảng qua nhưng đã thành bất diệt. Em là cả một khung trời thơ ngây trong trắng,
để tôi vẫn có thể sống với niềm tin là cuộc đời vẫn còn những gì đẹp đẽ.
Cám ơn Thủy Trúc, cám ơn buổi chiều hôm nay. Một buổi chiều đã xóa đi những nỗi lo sợ của
tôi trong những ngày tháng qua. Tôi sẽ không còn phải lo sợ phải nghe một tin
bất hạnh nào đó về em hay Mai, như những bất hạnh đã đến với một số bạn hữu của
tôi ngày xưa. Tôi sẽ không còn phải lo sợ
gặp lại em, nhưng hình dáng đẹp đẽ của em đã bị bào mòn vì thời gian, như nỗi
lo sợ bàng hoàng và đau đớn của tôi khi trở về Đà lạt nhìn thấy thành phố mất
đi vẻ đẹp hoang sơ ngày nào. Thủy Trúc
của tôi, cám ơn em đã trở về một lần, để tôi tin là một tâm hồn thánh thiện vẫn
luôn mang một vẻ đẹp không bao giờ thay đổi dù thời gian, cuộc đời có tàn khốc
thế nào đi nữa. Nhớ lại khuôn mặt rạng rỡ
và ánh mắt yêu thương của em khi nhắc đến chồng con và các cháu, tôi thật mừng
cho em, và cũng mừng cho những người thương yêu của em đã có được em trong đời. Nhưng lòng tôi cũng không khỏi se sắt bồi hồi
khi nghĩ đến mình sẽ luôn không có em, trong quãng đời này….
Nhưng dù sao, ít nhất, tôi đã có hình ảnh của em để mang theo
trong suốt cuộc đời của tôi, có một khoảng trời xanh Đàlạt đã nuôi tôi khôn lớn
và trở về trong những giấc ngủ cho ngày tháng bớt nỗi buồn tênh. Thủy Trúc, một lần nữa cám ơn em đã trở về,
có thể tôi sẽ còn cơ hội gặp lại em vào những buổi chiều tan sở, trên những sân
ga, để lại được có dịp ngồi nói chuyện với em, như hai người bạn cũ gặp lại
nhau, để lại được ngắm nụ cười thuần hậu.
Nhưng cũng có thể, em lại một lần nữa bước ra khỏi hẳn đời tôi, để chỉ
trở về trong những giấc mơ, và như thế, thì thật là buồn lắm …
Có phải em chỉ là mơ
Nên khi tôi ngủ tôi nhìn thấy
em
Bâng khuâng lấy sợi chỉ hồng
Thả vào trong gió để mà buộc em
Gió bay sợi chỉ mất rồi
Bơ vơ tôi đứng, ngỡ ngàng nhớ
em …
Thiên Hương
Tháng Mười Một 2003
MỘT KỶ NIỆM XƯA
Sáng nay Melbourne lại âm u sau một ngày thứ năm nắng nóng...
Lên FB lại thấy bạn bè bắt đầu post hình hoa mai anh đào nở ở Đà lạt. Trời
thì âm u, cảnh Đà lạt lại đẹp nên lại mơ màng nghĩ đến những ngày còn bé tí.
Lâu lắm rồi, hồi ấy mấy anh em còn nhỏ xíu. Không biết lúc ấy tôi học mẫu
giáo hay lớp tư, lớp năm. Anh Hung Bui trên một lớp, anh Loi Bui cũng chưa qua
tiểu học. Hôm ấy mấy anh em mới được bố mua cho cái máy gọt bút chì. Thích lắm.
Trưa ngủ dậy mấy anh em lôi hết bút chì đen, bút chì màu cho vào máy gọt. Vỏ bút
chì lấy ra nhìn rất sạch, thơm mùi gỗ, ngó hấp dẫn thì thôi. Bỏ đi thì tiếc. Mấy
anh em lấy ra một phong bì, bỏ hết phần gỗ vỏ bút chì vào, gói lại thật cẩn thận
và thật đẹp. Còn kiếm nơ buộc tử tế. Ngắm tới, ngắm lui. Tự dưng nhảy ra một tối
kiến, chẳng nhớ từ ai. "Bây giờ mình đem bỏ ngoài đường, người lượm được chắc
mừng lắm". Thế là một đứa cầm "gói quà" đem ra đường, để dưới chiếc xe hơi của
bác hàng xóm. Rồi 3 anh em chia nhau canh ở cửa sổ trên lầu. Một lúc bác hàng
xóm lái xe đi, "gói quà" cột nơ nằm yên trên đường.
Ba anh em nhô hết ra cửa, hồi hộp. Rất hồi hộp. Một người đàn ông đi xe đạp
qua. Ngưng lại xuống xe, quay lại nhìn quanh rồi vội vàng nhặt" gói quà", leo
lên xe đạp thẳng. Khỏi nói, tụi nhóc chúng tui vui thế nào. Nhắc đi, nhắc lại,
cười khúc khích.
Tới bữa cơm chiều, còn hớn hở.
Ở nhà tôi ngày xưa, hai bữa cơm luôn kéo dài. Đó là lúc chuyện gì cũng đem ra
kể. Hôm đó, ba anh em liếng thoắng kể chuyện gói quà lúc chiều. Ai ngờ, nghe
xong, bố tôi nhíu mày lại, đặt bát đũa xuống, không ăn nữa. Cả nhà nín thở, bố
trầm giọng nói: "Bố có dạy các con nói dối không?" Dạ không. "Bố có dạy các con
lường gạt người khác không?" Dạ không. "Vậy hôm nay tụi con đã làm gì?" Mấy anh
em nhắc lại. Bố trợn mắt: "Vậy không phải là lừa người ta sao? Lại còn cười?"
Tụi con đùa vui thôi mà Bố. "Đùa gì lạ vậy? Người đó lúc nhặt được mừng biết bao
nhiêu. Tới lúc mở ra họ thất vọng bực bội thế nào. Thế nào họ cũng chửi đứa nào
phá vậy. Tự dưng tự lành sao để người ta chửi?" Mấy anh em tái mặt, im thin
thít. Tối đó mâm cơm dở dang, kéo dài hơn vì những lời dạy của Bố. Cơn giận của
Bố kéo dài cả tuần. Bố không nói chuyện với ba đứa. Các bữa cơm trong thời gian
đó thật rất căng thẳng.
Nghĩ lại hồi đó Bố nghiêm thật, nhưng nhờ vậy mà tụi tôi lớn lên trong khuôn
phép. Bố tạo cho các con thói quen làm gì cũng nghĩ đến hiệu quả, và suy nghĩ
của người khác. Rất cám ơn bố mẹ đã sinh ra, và nuôi dưỡng dạy dỗ chúng con.
Sáng nay trời se se lạnh, như những sáng Đà lạt ngày xưa. Trời lạnh nên thấy
mình cũng chợt nhỏ nhoi, thèm chui vào cái kén ấm cúng của gia đình ngày
bé....
Có những ngày xưa êm như thần thoại
Có những nụ cười hồng làm ấm tuổi thơ
Có những bảo ban quí giá vô cùng
Xin cảm tạ cuộc đời nhiều ơn phước...
Có những nụ cười hồng làm ấm tuổi thơ
Có những bảo ban quí giá vô cùng
Xin cảm tạ cuộc đời nhiều ơn phước...
Thiên Hương
BÌNH THƯỜNG LÀ ĐỦ
Thiên Hương
Trời buổi chiều ấm nhẹ, bà Tư rời xe, cười với bạn, hẹn mai
lại đến đón đi làm như thường lệ.
Tới cửa nhà, thò tay vào túi xách lấy chùm chìa khoá, chả
thấy đâu. Lục tung cả túi cũng không có. Chắc lúc sáng vội đi nên khi đóng cửa
chỉ vặn ngang cái chốt bên trong, rồi đóng cửa đi mà quên chùm chìa khoá ở nhà.
Mà sao vô nhà đây, trễ cơm tối mất. Chợt nhớ là thứ ba mỗi tuần con trai đi học
về sớm, bà thở phào nhấn chuông.
Lo đặt nồi cơm, vào phòng thay quần áo, nhìn quanh những
góc hay để chìa khoá quen thuộc, không thấy đâu. Bụng hơi lo lo, vào bếp chuẩn
bị cơm nước như thường lệ, mà đầu óc tréo ngoe đủ loại tình huống.
Lúc ăn cơm, con trai hỏi, mẹ lo nghĩ gì vậy? Bà gượng gạo lắc
đầu. Thằng bé đang năm học cuối, bà không muốn thằng bé lại bỏ giờ học lo đi
tìm chìa khoá hộ bà. Đứa con hỏi vài lần, thấy mẹ vẫn trả lời quanh, ngại ngần
nhìn mẹ. Ráng cười với con cho con vui, chứ bụng bà lo lắm.
Dọn dẹp cơm nước xong, bà lại đi tìm. Vẫn không thấy, bà
nghĩ chắc có thể rớt trong xe người bạn. Nhấc phone hỏi, bà bạn nói đợi ra xe
kiếm. Một lúc gọi lại, bà bạn nói không có. Bà lại thần người suy nghĩ, có thể
rớt trong sở không, không thể có chuyện để trong sở được. Hay là rớt lúc rời
nhà, có thể lắm. Sáng nay lúc ra khỏi cửa, tay thì túi xách, tay thì lunch
pack, rồi còn khăn choàng, áo khoác, đủ thứ linh tinh. Lúc mở cửa xe, biết đâu
chùm chìa khoá rơi tuột xuống. Nghĩ tới đây bà toát mồ hôi hột. Kẻ trộm mà nhặt
được ngay trước cửa nhà, đúng là mời trộm
vô nhà khoắng đồ còn gì. Chùm chìa khoá lại mang tùm lum thứ, khoá nhà, khoá
các cửa phòng, tủ áo, lại còn lủng lẳng một USB mang đủ thứ của bà và gia đình.
Chỉ mang máng một chút hi vọng là kẻ trộm chưa nhặt được, nếu không sáng giờ tụi
nó đã vô nhà rồi.
Thế là bà lại lục sục đi tìm khắp nơi trong nhà mong tìm thấy
chùm chìa khóa đâu đó. 11g đêm, tất cả các góc đã xới lên hết, vẫn không thấy.
Bà Tư trở vào giường, đứa con hỏi vọng vào, hôm nay mẹ không xem phim sao? Bà lắc
đầu, tự dưng thèm được như buổi tối những hôm trước. Đi làm về, cơm nước, trò
chuyện quẩn quanh. Rồi thong dong đọc báo, xem phim... Cuộc sống những lúc đó
sao nhẹ nhàng đến vậy. Lúc này bà mới thấy quí những giờ phút bình thường mà
nhiều lúc bà chán ngắt và nghĩ là tẻ nhạt.
Sáng hôm sau, vào xe đi chung với bà bạn, bà lại tìm tung
trong xe không thấy dù chị bạn nói, hôm qua đã tìm hết rồi. Vào sở, bà lại
phone hỏi bàn tiếp tân xem có ai nhặt được chùm chìa khoá nào đưa lại không.
Không có, bà lại nhìn quanh dưới ghế, dưới bàn, trong hộc bàn, hộc tủ, vẫn chẳng
thấy đâu cả. Tìm dù biết chắc không có khả năng để trong đó, chỉ cầu may thế
thôi, mà vẫn cắm cúi tìm. Làm việc mà óc bà cứ tréo lên suy nghĩ xem bà có thể
để chúng ở đâu. Đám làm việc cùng, đi
ngang thấy bà không tươi như mọi ngày, đều hỏi thăm xem bà có khỏe
không. Bà cười nói tui Ok mà, nhưng trong bụng vẫn lấn cấn gì đâu. Buổi trưa ra
đi bộ, bà cũng không có lòng dạ nào ngắm cảnh dù trời hôm ấy rất đẹp. Tự dưng,
thèm biết bao nhiêu những giờ phút thong dong, khi trong đầu không có gì lo lắng.
Chiều vội về nhà, bà vừa nấu cơm vừa tìm, loay hoay thế
nào, tay lại thò vào túi chiếc áo khoác dày mặc hai hôm trước, khi trời còn lạnh.
Chùm chìa khóa nằm đó, bà nhẹ hẳn người, vào bếp nấu cơm, miệng còn hát nho nhỏ
nữa.
Bữa cơm chiều, đứa con trai nhìn mẹ,
- có chuyên gì vui vậy má.
- Má tìm thấy chùm chìa khóa rồi, hôm qua tưởng mất đó con.
- Có chừng đó mà má rầu từ hôm qua tới giờ đó hả. Mất thì
thôi, làm chùm khóa mới
- Nói như dễ lắm, mất thì mất công làm lại hết một lô khóa cửa.
Rồi còn mất công lo nữa chớ.
- Thì có gì đâu má, bận một ngày là xong hơi đâu mà lo . Má
cứ hay lo hoài hà. Take it easy đi má.
Thằng nhỏ nhìn mẹ cười, bà Tư cũng cười. Nhìn tụi nhỏ vô
tâm thấy cũng vui, mà nó nói cũng đúng chớ. Lo buồn có được gì đâu nào, lo buồn
cái chùm chìa khóa cũng chẳng hiện ra. Cái gì mất thì cũng mất, bình tĩnh và giữ
tâm vui là hay nhất. Ờ mà cũng lạ nha, tìm ra chùm chìa khóa thì cũng trở lại
như những ngày bình thường trước đó thôi, vậy sao mà vui dữ vậy.
Chỉ là khi một vật tưởng mất đi, tìm lại được lúc đó mới mừng,
mới thấy quí. Chỉ là khi bệnh thèm được khỏe mạnh, khỏi bệnh mừng quá xá chừng.
Vậy mà những lúc bình thường, lại không cảm thấy vui, không cảm thấy đáng ăn mừng,
kỳ vậy ta. Tại sao không vui, không trân trọng tất cả những gì đang có vậy. Như
lúc này đây, bà Tư đang vui lắm, vì bà đã tìm lại được một vật tưởng đã mất đi.
Vừa dọn bàn, bà vừa hát nho nhỏ.
Đứa con trai nhìn mẹ, niềm vui sáng ánh trong mắt, hai má
con cười với nhau. Ở góc phòng, những đóa hoa vẫn nở như mọi ngày, nhưng có vẻ
lung linh rực rỡ hơn nhiều ... Chỉ mong mọi ngày vẫn êm đềm như vậy, bà Tư cảm
thấy thật cám ơn khi tất cả đều bình thường, nhưng êm ả. Chỉ cần bình thường
như thế, êm ả như thế, chỉ cần đơn giản như thế thôi, một ngày như mọi ngày,
bình yên là hạnh phúc, thật hạnh phúc, có đúng không?
Thiên Hương
Tháng Một - 2015
LẠI NHỮNG CẢM
NGHĨ RỜI
Đã lâu lắm rồi tôi không làm nổi một bài
thơ. Tại mình , tại người hay tại đời đã
xanh rêu như trong một câu hát nào đó.
Sáng nay trời thật xanh và trong kỳ lạ, xanh như những ngày tháng năm
nào của tuổi thơ ngà ngọc. Hai bên
đường, những cây đào hồng rực, những cây mai trắng xóa. Vậy mà chẳng phải là
mùa xuân của vùng đất Đà lạt năm nào và tôi cũng chẳng phải là tôi của những
tháng ngày xưa cũ. Vẫn sách vở cầm tay,
vẫn những đêm dài bên sách vở, vẫn những
sáng vội vàng đến trường và những ngày thi nôn nao hối hả. Nhưng tôi đã mất hẳn tôi, vì vùng đất
Melbourne không phải là mảnh đất quê nhà, vì mầu cờ quê hương đã đổi thay, vì
thời gian đã qua đi, vì tuổi trẻ đã phôi pha, vì mái tóc đã nhạt màu và những
mơ ước cũng đã tàn phai.
Vậy mà đã mười mấy năm rồi đó
Tuyết. Mấy hôm nay tôi chợt nhớ nhỏ bạn
này kỳ lạ. Nhớ hoài giọng nói đẫm nước
mắt của nó vào một ngày cuối năm 75....
Ước gì Tuyết được sống lại một
ngày như ngày xưa rồi Tuyết chết cũng được ...
Vậy mà mi có đợi được đâu. Giữa
năm 76 mi đã vội vàng tìm đến cái chết, vội vàng uống mấy viên thuốc ngủ bên bờ
hồ Xuân hương thửơ xưa mình cùng đi dạo.
Mà dù có đợi, cũng chả bao giờ ngày ấy trở lại.
Bao nhiêu năm rồi đó, tôi vẫn đi tìm,
tìm hoài tìm hủy mà chẳng tìm lại được mình, những bạn bè xưa giờ ở đâu hết
cả, còn lại mình mình giữa một đất nước
lạ xa. Đã lại sắp thi, nhìn đám bạn
Việt nam với đôi mắt lõm sâu sau những đêm gạo bài thức trắng mà nhớ đám học
trò năm nào bị lùa đi vùng kinh tế mới trở về.
Những ánh mắt thâm u trên gương mặt xanh xao nhìn tôi ngơ ngác: Cô, em đã trở về, mẹ em đã chết... Cô, em đã trở về, ông em giờ nằm bệnh
viện... Cô, em đã trở về, ba em vẫn chưa
có tin gì trong trại học tập ... Trời
ơi, làm sao cho tôi quên những bóng ma thân yêu ngày nào.
Sáng nay, sân trường Chisholm thật vắng,
dáng Linh chênh vênh cô đơn trước Giảng đường B làm hồn tôi nôn nao kỳ lạ. Muốn làm một bài thơ mà không sao viết
nổi. Những câu thơ than mây khóc gió
ngày nào hình như cũng khô theo tháng năm.
Chợt nhớ một câu thơ nào đó:
Ai cũng bảo mắt em buồn lắm
Tôi cũng mong sao nó thật
buồn
Khăn trắng mai sau còn chít
chứ
Lệ sầu nối tiếp những chiều
đông ...
Rồi gì nữa nhỉ, và ai viết, làm sao mà
nhớ nổi khi trí óc đã nhạt nhòa, khi đã bao nhiêu năm trời vật lộn với đời
sống. Ai sao gặp tôi cũng hay hỏi: Qua đây thấy làm sao, đi học thấy làm
sao. Làm sao mà trả lời khi tôi cũng
chưa còn hiểu rõ chính mình. Lúc còn ở
Việt nam thì ham đi, cứ nghĩ là qua đây sẽ sung sướng lắm. Nhưng làm sao định nghĩa được thế nào là sung
sướng? Give the definition for ROM, for
Primary Memory, it is easy, but give the definition for happiness, how can I
do? Định nghĩa nó còn chưa được làm sao tìm thấy? Tại sao chúng tôi đã phải ra đi, tại sao
chúng tôi đã phải từ bỏ tất cả, và tại sao chúng tôi phải bắt đầu cuộc đời từ
một đất nước lạ xa giữa những con người không phải là máu mủ? Vậy thì đừng hỏi tôi cảm thấy thế nào, vì trong
chúng ta, những con người da vàng tóc đen nhỏ bé đang sống ở đây, hẳn ai cũng
có những đêm dàithức giấc, lặng lẽ ngắm ánh đèn đường mà thèm chết được nó là
ánh trăng quê nhà, thèm nghe tiếng rao hàng lê thê não nuột của những gánh hàng
rong, và ước ao được nhìn ánh mắt của người mẹ giờ còm cõi ở vùng đất thân yêu.
Mười mấy năm, tôi lại cắp sách đến
trường, ngỡ mình sẽ trẻ ra trong những sinh hoạt học đường, nhưng không, càng
gần lại, càng thấy mình già cỗi. Khi hạt
nước mắt đã lăn, nó không bao giờ trở về chốn cũ, khi bong bóng đã tan, nó
không sao kiếm lại được hình dạng xưa, và khi hi vọng, niềm vui đã bị bóp chết,
mầm sống cũng chỉ còn là gượng gạo.
Thiên H.ương ơi, mi đừng tham lam quá, khi biết bao nhiêu người đã đổi
mạng sống của họ để ao ước đến đây, khi bao nhiêu người đang vật lộn với đời
sống nơi quê nhà và bao nhiêu người đang thèm khát hai tiếng tự do. Mày đã đào thoát, mày đã đến một nơi chốn
bình yên. Mày còn mong ước và đòi hỏi gì
nữa? Mày đã có những gì mà nhiều người
mơ ước, mày đã đạt được những gì mày chờ đợi, vậy mà sao mày vẫn buồn, vẫn khắc
khoải với chính mình, vẫn đi tìm hoài những bóng ma ảo ảnh?
Làm sao mà vui được khi tâm hồn không
còn trong trẻo, khi những kỷ niệm buồn đã đầy ắp trong đời sống và khi những
đóa hoa đã nở trên đường đời là những đóa hoa không phải mình mong đợi. Ngày tháng đã qua đi sẽ không bao giờ trở
lại, thôi thì hãy rán níu kéo những tháng ngày hiện tại để tương lai không còn
gì phải hối tiếc, nhưng liệu có được không?
Đàn tơ một phím,
Nhẹ gảy khúc u hoài
U buồn lê chân khắp nẻo
Tìm hoài vẫn chẳng thấy bóng
tri âm ...
Thiên Hương
Đã hơn một năm rồi tôi chưa về Đà lạt.
Tuy nhiên vẫn đưọc xem rất nhiều các hình ảnh của Đà lạt do
bạn bè hoặc gửi qua email, hoặc xem trên mạng, trên facebook.
Biết nói làm sao nhỉ, những hình ảnh đó hình như chụp một
thành phố lạ, dù đó là nơi tôi đã sinh ra, đã lớn lên, vẫn nghĩ tới hàng ngày
và hàng đêm vẫn có những giấc mơ trở về thành phố ấỵ
Lần trở về lần trước, khi máy bay gần đến Đà lạt, có vẻ như
tôi đã mất dần cái cảm giác của một người con đi xa trở về thành phố cũ.
Phi trường Liên Khương mới xây dựng thật xa lạ, không có một
gương mặt thân quen nào trong hơn một trăm hành khách cùng chuyến. Ngày xưa lúc
còn nhỏ, thỉnh thoảng cuối tuần mấy anh em lại xuống chơi với chú tôi làm ở phi
trường Liên Khương. Trong trí ức tuổi thơ, đó là một phi trường nhỏ, vắng vẻ, mấy
anh em chạy chơi trên những bãi cỏ, những túi vải nhọn như những chiếc nón căng
phồng bay theo chiều gió. Mấy anh em theo chú tôi lên đài kiểm soát, nhìn theo
những chiếc bong bóng bay lớn thả đo độ gió. Bầu trời có lúc xanh, có lúc xám,
có lúc có những cơn mưa, nhưng lúc nào cũng dịu dàng, êm ả. Phi trường ấy giờ
đã đóng cửa, phi trường mới đã xây dựng, lớn, tối tân và đẹp hơn hẳn, như một lời
nhắc nhở chua xót là khung trời ngày xưa đã thật sự khép lại, và những gì của
tuổi thơ đã thật sự không còn nữa.
Bước vào nhà ga, lấy hành lý. Người của khách sạn đã chờ sẵn,
lịch sự xách dùm hành lý, xin lỗi nói còn phải đợi thêm hai hành khách nữa.
Bước ra cửa, cái cảm giác mình thật sự là một du khách bỗng
chợt làm tôi bàng hoàng. Con đường về thành phố cũng thật khang trang, một xa lộ
rộng rãi với những hàng cây chưa cao lắm, chưa tới mùa hoa nên không có vẻ rực
rỡ. Không khí đầu tháng giêng cũng không có vẻ lạnh. Hai bên đường nhà cửa san
sát. Xe lăn bánh trên một con đường êm ái, phẳng phiu và sạch sẽ như đang đi đến
một thành phố du lịch xa lạ nào đó, trong khi tôi đang hồi hộp trở về một thành
phố dịu dàng và quen thuộc, trở về thăm mảnh đất yêu dấu của tuổi thơ.
Hai người khách kia là một cặp vợ chồng trẻ cũng đến từ Úc.
Tôi nghe người vợ khẽ nói với chồng ..."em thất vọng quá, thành phố có vẻ
phát triển quá nhiều, quá nhiều kiến trúc mới, không có cái vẻ đẹp đơn sơ của
cao nguyên như mình coi trong sách".
Khi biết tôi ở thành phố này từ nhỏ, họ hỏi ý tôi nên đi
thăm nơi nào của Đà lạt. Tôi ngẩn người không biết trả lời thế nào. Chỉ biết
khe khẽ nói "Cảnh vật Đà lạt giờ thay đổi rất nhiều, nhiều công trình xây
dựng mới, nên tôi không rành lắm. Chắc các anh chị nên đến các nơi mà các công
ty du lịch đã hướng dẫn. Họ có những thông tin cập nhật và biết nhiều hơn tôi.
Với tôi, Đà lạt luôn đẹp vì nó là nơi tôi sinh ra, lớn lên. Tôi hay về đây vì ở
đây, tôi có thể thăm mộ của ba mẹ tôi, có thể gặp lại bạn bè và những người
thân quen, không vì mục đích du lịch. Đà lạt với tôi là khu rừng của kỷ niệm,
là một thế giới ngọc ngà của tuổi nhỏ, là nơi của những giấc mơ và những nỗi nhớ”.
Tôi chỉ biết nói như thế vì thiệt tình, Đà lạt giờ còn đẹp
không, làm sao tôi có thể nói khi đi trên những con phố thơ mộng của ngày xưa
giờ chỉ nhấp nhô nhà cửa. Làm sao tôi có thể giới thiệu những kiến trúc vội
vàng, thiếu cân xứng. Đi vào Thung lũng Tình Yêu, các đồi thông đã bị cắt xén
và thấy lố nhố những quán xá xây dựng vội vàng, thô sơ. Các ngọn đồi thơ mộng
giờ đầy nhà cửa, đủ kiểu, cao thấp nhập nhằng. Thành phố đã có rất nhiều những
con đường mới, những phố xá mới, nhiều chung cư đang xây dựng ở khắp nơi. Hình ảnh
những cây thông trở nên hiếm hoi lạ kỳ. Vậy đó, vậy mà khi nhắc tới, nghĩ tới
Đà lạt, tôi vẫn luôn nghĩ đến cái tên luôn đi kèm với nó, thành phố ngàn thông!
Con đường về thành phố chỉ còn một khúc đèo ngắn ngủi thiếu
vắng nhà cửa và còn chút bóng thông. Con đường Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Trường
Tộ hoàn toàn khác những gì trong trí nhớ. Đường sá đã mở rộng, các cây mai, cây
đào đã thay thế bằng một loại cây lạ.
Về đến khách sạn, những cái gật đầu chào lịch sự và những nụ
cười của các tiếp viên lại càng làm tôi thêm tủi thân. Biết làm sao khi tôi chỉ
là một người khách, đúng nghĩa một người khách, sao có thể tìm thấy sự ấm áp
thân quen qua những nụ cười tiếp đón khách sáo đó. Vào phòng, việc đầu tiên là
mở cánh cửa sổ, căn phòng rộng nằm trên cao, xeo xéo là những cành thông la đà,
vẫn con dốc thoai thoải với những bực thang dẫn xuống con đường phía dưới. Con
đường đó, đã có những cây lớn thay thế những cây đào, cây mai nhỏ nhắn ngày
xưa. Một thành phố ngập ngừng đang chờ tôi đi tìm kiếm lại những hình ảnh xa
xưa ngày cũ.
Tôi xuống lễ tân đề nghị đổi lại gian phòng nhìn ra hồ, vì
... đi bao nhiêu cây số tôi chỉ cốt khi mở cửa phòng ngủ nhìn ra lại thấy hồ
Xuân hương, lại thấy nhà Thủy tạ, hai hình ảnh luôn nằm trong trí nhớ.
Sau khi đổi phòng, mở cửa sổ nhìn ra, chiếc hồ dễ thương còn
đó với căn nhà Thủy tạ xinh xinh. Nhìn bên tay phải thấy thiêu thiếu cái gì,
ngôi nhà Cercle màu đỏ đã bị bứng từ lúc nào, để lại một khoảng trống buồn bơ
vơ. Xa xa, những mảnh vàng loang lổ của những khoảng đất đang chuẩn bị xây cất
lộ ra nham nhở trên những ngọn đồi xanh mướt. Ngọn tháp chuông của trường Lycée
Yersin vẫn còn đó, lặng lẽ nhìn xuống những thay đổi của thành phố. Bên kia hồ,
nhà hàng Thanh Thủy đã mở lớn với những dãy đèn và những chiếc xe đạp nước hình
thiên nga. Và … trời ơi, ngôi nhà nhỏ của Hướng Đạo ngày xưa đã mất đi, thay
vào đó là 2 con rồng bằng cây xanh nằm dài kỳ lạ.
Khu vườn rộng của khách sạn còn gom lại được phần nào những
hình ảnh của ngày xưa cũ, một chút khí lạnh, một chút hương phấn thông ngây
ngây nỗi nhớ.
Buổi chiều bước xuống những bậc thang cao dẫn ra khỏi khách
sạn, trời bắt đầu đổ mưa, bắt đầu lành lạnh, cái lạnh ẩm ướt của cao nguyên.
Tôi bước lang thang dưới mưa, trên những con đường, những con dốc chẳng còn gì
nét đẹp ngày xưa. Con dốc lên nhà thờ cũng khác hẳn, chỉ toàn nhà và hàng quán.
Cầu Ông Đạo cũng khác đi, ấp Ánh sáng cũng đã thu dọn, những vườn rau đã mất
đi. Đường lên đốc chợ lạ hoắc lạ hươ. Hai bên dốc chợ cũng toàn hàng quán. Những
tiệm kem xinh xẻo ngày xưa đã lớn hẳn ra, nhô hẳn ra ngoài lề đường. Khu Hòa
bình nhỏ lại, cũ kỹ. Cầu thang chợ, khu chợ trên, tất cả đều thay đổi. Khu đất
trước mặt hông Khu Hoà Bình, trải ra rất nhiều những gian hàng bán quần áo cũ,
gọi là gian hàng chứ thật ra chỉ là những đống quần áo đổ đầy trên những tấm bạt,
phủ đầy trên đất. Những hàng bắp nướng, khoai luộc, bánh tráng, đậu phụng, những
đứa bé bán rong vẫn tẩn mẩn công việc mưu sinh. Lại có cả những đám đông xúm
quanh những chiếu cờ bạc. Cảnh tượng tấp nập và ồn ào thay cho cái gọn ghẽ,
xinh xắn, nhẹ nhàng của ngày thơ bé. Biết làm sao khi dân số đã tăng trưởng, từ
hơn 50 ngàn người lúc tôi ở đó nay lên đến hơn 200 ngàn[1]. Việc mở rộng thành
phố cũng không theo một qui hoạch rõ ràng và hệ thống. Hễ có đất là phải có
nhà, cây cối chặt ráo trọi để phục vụ cho nhu cầu nhà ở. Các rặng cây trên đường
đã lui bước nhường cho những gian hàng quán xá. Nhu cầu kiếm sống đã bỏ qua hết
các cảm quan về nghệ thuật.
Bởi vậy, những con đường, những con dốc thơ mộng ngày xưa giờ
chỉ còn là tác phẩm của sự xây dựng đô thị cẩu thả và nham nhở.
Vườn Bích Câu không còn nữa, bên cạnh đó là Vườn Hoa Thành
phố Đà lạt. Lớn đấy, nhiều hoa cỏ đấy, nhưng mất đi cái duyên dáng đặc trưng của
Đà lạt.
Tôi đã ngồi sau lưng chiếc xe của cậu cháu, đi lại những nẻo
đường hay đi thưở nhỏ. Dốc Cam Ly, cầu Bá Hộ Chúc, dốc Hải thượng, Duy Tân, dốc
lên nhà thờ Con Gà, dốc Địa đư, khu Mả Thánh, trường Trần Hưng Đạo, khu Đại học,
v.v... Đâu đâu cũng chỉ thấy nhà với cửa, con đuờng nhỏ phía sau trường sư phạm
Hùng Vương băng qua khu Cô giang giờ là một chung cư lớn đang xây đựng. Những
khu chợ nhỏ đã thay thế bằng những khu dân cư. Thật rất khó tìm lại được những
hình ảnh, những cảnh trí của ngày xưa. Những bụi dã quỳ, dâm bụt giờ đã thay thế
bởi những dãy hàng quán, nhà nghỉ, nhà ở với đủ loại cấu trúc khác nhau. Đà lạt
đã thay đổi, thật sự thay đổi.
Cái thay đổi không làm phiền những người dân thành phố khác
đến đây du lịch nhưng làm những người trở về từ nước ngoài như tôi hụt hẫng. Biết
nói làm sao khi rời bỏ cuộc sống bận bịu nơi xứ người, muốn trở về một chốn cũ
dịu dàng và bình yên, tìm lại những hình ảnh dấu yêu ngày xưa để chỉ còn gặp lại
một thành phố tạp lục và xô bồ. Chỉ khi đêm xuống, khi thành phố chìm hẳn vào
sương, những con dốc mờ ảo che đi phần nào những kiến trúc mới, Đà lạt mới trở
lại phần nào dáng vẻ xa xưa. Nhưng mùi phấn thông, mùi hoa cỏ cũng đã hoàn toàn
bay mất, chỉ còn chút sương lạnh buốt rơi trên vai và chút nước mắt khô dần
theo hơi ấm của những giờ phút gặp lại những bạn bè thời trung học.
Ngày xưa bốn lớp 12 gần hai trăm học sinh, giờ gặp lại chỉ vỏn
vẹn dưới hai mươi đứa. Chúng tôi ngồi lại với nhau, nhìn nhau, kể lại những kỷ
niệm học trò, gợi nhớ những khuôn mặt đã ở xa, đã khuất bóng. Bạn bè cũ gặp
nhau, cùng nhau cười dỡn, cùng nhau thủ thỉ, cùng nhau nhau hát, và cũng có những
lúc cùng nhau nước mắt rưng rưng… Thật may mắn là cái tình của người Đà lạt vẫn
còn nồng đượm.
Tôi cũng lên khu Du sinh thăm mộ ba má tôi. Những ngọn thông
trên đồi đã vắng bóng. Ngay cả cây cỏ cũng phải nhường chỗ cho con người. Các
ngôi mộ đã mọc kín ở những khu gần đường, các mảnh đất nhỏ xíu cũng phủ kín bởi
những tấm bia... Đất đai được tận dụng một cách tối đa, cho cả người sống lẫn
người chết. Đường đi đến khu Du sinh cũng đầy quán xá. Trong thành phố, khó thể
tìm ra được một con đường chỉ có những bụi cây, thấp thoáng vài căn nhà nhỏ ẩn
hiện sau những dàn hoa điểm thoang thoảng chút đốm hồng hay tím.
Và như thế, nếu có ai hỏi tôi như hai người ngoại quốc đồng
hành trong chuyến xe rời phi trường lần ấy, về những nơi nên đến thăm của Đà lạt,
tôi cũng sẽ lại ngập ngừng như vậy. Với tôi, tôi trở về Đà lạt vì những kỷ niệm,
vì bạn bè và để tìm lại hương vị ngọt ngào ngày xưa... Ừ, ngày xưa... Từ một
lúc nào, ngày xưa ấy chỉ còn trong nỗi nhớ, thăm thẳm như màu tím của hoa đồng
thảo[2], nhưng lúc nào nghĩ đến, trong tâm cũng óng ánh nụ vàng như đám dã qùy
rực rỡ mùa đông... Còn vẻ đẹp của Đà lạt, thì hình như bây giờ trong tôi, Đà lạt
chỉ còn đẹp trong nỗi nhớ, một nỗi nhớ rất mênh mông ...
Tháng 10 - 2012
Không có nhận xét nào :
Không cho phép có nhận xét mới.