Sưu tàm từ Internet

TÔI ĐÃ HỌC ĐƯỢC TỪ CUỘC SỐNG ….


Cuộc sống có muôn điều kỳ diệu, đáng cho ta cảm nghiệm và thốt lên rằng: "Tôi đã học được từ cuộc sống... "

 

... Tôi đã học được từ cuộc sống: Tôi không thể bắt người khác yêu mến mình, tất cả những điều tôi có thể làm là cố gắng trở thành một người đáng được người khác yêu mến...

 

... Tôi đã học được từ cuộc sống: Tôi có thể đúng khi giận dữ ai đó, nhưng không thể chấp nhận bất cứ lý do nào cho việc tôi biến thành một kẻ tàn nhẫn với người khác...

 

... Tôi đã học được từ cuộc sống: Cho dù bạn bè tôi tốt như thế nào cũng sẽ có lúc họ làm tôi bị tổn thương, và tôi phải biết tha thứ cho điều đó...

 

... Tôi đã học được từ cuộc sống: Trước khi muốn tha thứ cho người khác, tôi phải tập tha thứ cho chính bản thân mình...

 

... Tôi đã học được từ cuộc sống: Khi một người không yêu mến tôi như tôi như tôi mong muốn, không có nghĩa là họ không yêu mến tôi hết lòng...

 

... Tôi đã học được từ cuộc sống: Mình phải mất nhiều năm để tạo lòng tin nơi người khác, nhưng lại có thể đánh mất nó chỉ trong một giây...

 

... Tôi đã học được từ cuộc sống: Tôi phải luôn cẩn trọng vì những lỗi lầm tôi gây ra trong một khoảnh khắc, có thể làm tôi hối hận cả một đời…

 

KHUYẾT DANH

 

Sưu tầm từ Internet


CHÌA KHÓA NIỀM VUI


Trong tâm của mỗi người đều có “chìa khóa của niềm vui”, nhưng chúng ta lại đem giao cho người khác quản lí. Chìa khóa của bạn ở đâu rồi? Đang nằm trong tay người khác phải không? Hãy nhanh lên mà lấy lại nhé. Đọc mà thấm thía.

 

Tác giả chuyên mục nổi tiếng Sydney Harries và một người bạn dừng chân mua báo ở một quầy bán báo, người bạn mua xong rất lịch sự nói lời “cám ơn” nhưng người chủ quầy báo thì ngược lại, mặt lạnh như tiền một tiếng cũng không mở miệng.

 

Hai người rời quầy báo tiếp tục đi về phía trước, Sydney Harries hỏi “ông chủ đó thái độ kỳ quáy quá phải không”?

 

Anh bạn nói “cứ mỗi buổi tối là anh ta đều như vậy cả”.

 

Sydney Harries lại hỏi tiếp “như vậy, tại sao bạn lại đối xử tử tế với ông ta chứ”?

 

Người bạn trả lời: “tại sao tôi để ông ta quyết định hành vi của tôi chứ”?

 

Một người biết nắm chắc chìa khóa niềm vui của mình, thì người đó không đợi chờ người khác làm cho mình vui mà ngược lại mình còn có khả năng đem niềm vui đến cho người khác. Trong tâm của mỗi người đều có “chìa khóa của niềm vui”, nhưng chúng ta lại không biết nắm giữ mà đem giao cho người khác quản lí.

 

Một người phụ nữ thường than phiền trách móc: “tôi sống rất buồn khổ, vì chồng tôi thường vắng nhà!”, cô ta đã đem chìa khóa niềm vui của mình đặt vào tay chồng.

 

Một người mẹ khác thì nói “con trai tôi không biết nghe lời, làm cho tôi thường xuyên nổi giận!”, bà đã trao chìa khóa vui của mình vào tay con trai.

 

Một vị trung niên của một công ty thở dài nói “công ty không thăng chức cho tôi, làm tinh thần tôi giảm sút,...!” anh ta lại đem chìa khóa niềm vui của cuộc đời mình nhét vào tay ông chủ.

 

Bà cụ kia than thở “con dâu tôi không hiếu thuận, cuộc đời tôi sao mà khổ!”…

 

Một thanh niên trẻ từ tiệm sách bước ra la lên “thái độ phục vụ của ông chủ đó thật đáng ghét, ...”

 

Những người này đều có một quyết định giống nhau, đó là để người khác đến khống chế tâm tình của mình. Lúc chúng ta cho phép ngừơi khác điều khiển và khống chế tinh thần chúng ta, chúng ta có cảm giác như mình là người bị hại, đối với tình huống hiện tại không có phương pháp nào khác nên trách móc và căm giận trở thành chọn lựa duy nhất của chúng ta.

 

Chúng ta bắt đầu trách móc người khác đồng thời chúng ta cũng truyền tải một yêu cầu là “tôi khổ như vậy là do anh/ chị/con ...và anh/ chị/con... phải chịu trách nhiệm về nổi khổ này”! Lúc đó chúng ta đem trách nhiệm trọng đại phó thác cho những người xung quanh và yêu cầu họ làm cho chúng ta vui. Chúng ta dường như thừa nhận mình không có khả năng tự chủ lấy mình, mà chỉ có thể nhờ người nào đó xếp đặt và chi phối mình. Những người như thế làm người khác không muốn tiếp cận, nhưng nhìn mà thấy sợ.

 

Một người biết nắm chắt chìa khóa niềm vui của mình thì người đó không đợi chờ người khác làm cho mình vui mà ngược lại mình còn có khả năng đem niềm vui đến cho người khác. Tinh thần người đó ổn định, biết chịu trách nhiệm về chính mình không đỗ lỗi cho người khác; biết làm chủ cảm xúc và biết tạo cũng như giữ được niềm vui cho chính mình, như thế thì trong cuộc sống và công việc hằng ngày người đó sẽ thảnh thơi vui vẻ không bị áp lực từ người khác.

 

Chìa khóa của bạn ở đâu rồi? Đang nằm trong tay người khác phải không? Hãy nhanh lên mà lấy lại bạn nhé!!!

 

Chúc mọi người đều luôn giữ được niềm vui của mình.

 

MÙA LỄ TẠ ƠN

ĐỖ DUNG


Bước sang Tháng Mười Một, trời miền bắc Cali bắt đầu trở lạnh.  Gần 10 giờ sáng mà ông mặt trời vẫn còn như ngủ muộn, chưa chịu chui ra khỏi những tảng mây xám và màn sương như trải tấm lụa mỏng che phủ cảnh vật.  Không gian ủ ê, xám buồn.  Cali mới chớm thu, lá còn xanh.  Qua internet gần như khắp nơi, đặc biệt ở Canada và bên miền đông Hoa Kỳ lá đã đổi mầu. Thiên nhiên đẹp như tranh vẽ với màu sắc tươi sáng hài hòa, những rặng cây đỏ thắm, vàng tươi, vàng mơ đua nhau khoe sắc.  Lá vàng, lá đỏ rụng xuống dệt thành những tấm thảm dầy bao phủ mặt đất, thỉnh thoảng những chiếc lá khô cũng xào xạc bay theo gió hay  vỡ vụn dưới chân.  Sắc Thu rực rỡ nên mùa Thu quyến rũ khiến người ta ngất ngây.

 

Sang Tháng 11 cũng bắt đầu mùa Lễ Tạ Ơn - Thanksgiving.  Theo truyền thống của đại gia đình họ Đỗ chúng tôi, Thanksgiving là ngày “Family Reunion”, tất cả con cháu sẽ tụ tập tại Đỗ Gia Trang từ Thứ Năm đến Chủ Nhật mới chia tay.  Năm ngoái, năm 2020, vì bị nạn dịch Covid-19 ngăn trở, Đỗ Family Reunion đã được tiến hành qua Zoom.  Tuy không được cận kề bên nhau, nhưng chúng tôi vẫn rất vui vì cả đại gia đình vẫn “gặp mặt”, vẫn nhắc nhở công đức của ông bà, vẫn ca hát, chuyện trò, vẫn rúc rích tiếng cười...

 

Nạn dịch kéo dài không biết đến bao giờ mới dứt, thêm những rắc rối, hỗn loạn của mùa bầu cử, ngồi ngoài vườn, ngước lên trời tìm mây, dõi theo những cụm mây xám lờ lững bay mà tôi thở dài.  Tôi mong thời gian mau qua để nhìn thấy quê hương thứ hai của tôi trở lại thanh bình, vĩ đại, tốt đẹp như cũ. Hoa Kỳ sẽ lấy lại được sự kính trọng, mơ ước của mọi người trên thế giới. Một “promised land”cho những người đã phải bỏ quê hương mà đi.

 

Vì nạn dịch, mọi người phải giới hạn những cuộc gặp gỡ, hội họp, nhưng chị em chúng tôi vẫn “zoom meeting” hàng tháng và “face time” với con cháu thường xuyên.  Vì ảnh hưởng của TT Trump, dân Mỹ chia rẽ thành hai phe rõ rệt, bên bênh, bên chống, gây ảnh hưởng rất tai hại vào sinh hoạt của các hội đoàn, và ngay cả trong rất nhiều gia đình. Ngày trước bạn bè gặp nhau mừng rỡ, đồng đội xa cách thì thấy nhớ, thấy thương. Bây giờ tự dưng vì bất đồng chính kiến mà sự chia rẽ trầm trọng, ghét bỏ nhau, chửi bới nhau nặng nề hơn cả đối với cựu thù!  Vì đâu nên nỗi!?

 

May mắn thay, gia đình chúng tôi không vướng mắc phải cái nạn đau thương đó.  Từ thế hệ chúng tôi đến hàng con, hàng cháu đều vì nhớ lời dạy dỗ của cha mẹ tôi là các con phải đoàn kết, thương yêu, đùm bọc nhau và bao giờ cũng phải giữ một cuộc sống có ĐẠO ĐỨC, LƯƠNG TÂM và TRÁCH NHỊÊM nên nếp suy nghĩ tương đối cũng gần giống nhau và không đưa đến bất đồng trong sự lựa chọn Tổng Thống của kỳ bầu cử vừa qua.

 

Từ trước 1975, với bầy con 12 đứa, cha mẹ tôi đã ấp ủ có một Đỗ Gia Trang, một dẫy nhà hình chữ U gồm 13 phòng lớn. Ông bà một phòng và mỗi gia đình con một giang sơn nhỏ để khi ông bà về hưu thì gia trang này sẽ là nơi con cháu tụ họp vào những ngày Tết Nguyên Đán, ngày giỗ hay dịp nghỉ hè. Ông sẽ cầm cây gậy chỉ huy của Ông để chỉ huy lũ cháu chắt.  Cả một gia trang sẽ rộn rã tiếng cười... Cha mẹ chúng tôi đã mua sẵn mấy mẫu đất trên sườn đồi khu Mê Linh, Đà Lạt, trông ngay ra mặt hồ, phong cảnh thật hữu tình, nên thơ để thực hiện giấc mơ đó. Nhưng ai ngờ, ngày 30 Tháng Tư 1975 oan nghiệt đã đến! Tất cả các  mộng ước của ông bà đều vỡ tan.  Nhà đã vẽ nhưng chưa kịp xây thì cha tôi, một sĩ quan cấp tá của Quân Đội VNCH đã phải khăn gói đi tù cải tạo.  Hơn mười năm cha tôi đã nhục nhằn trong  vòng khổ ải từ trại Long Giao trong Nam đến Hà Sơn Bình ngoài Bắc, đến khi được ra tù thì đã sức tàn, lực kiệt.

 

Mẹ tôi rất giỏi dang, chịu thương chịu khó, cả đời buôn bán chắt chiu, cùng với cha tôi gây dựng cơ nghiệp và nuôi dậy cho anh chị em chúng tôi được nên người. Sau năm 1975, trong khi cha tôi phải đi tù, mẹ tôi đã phải chịu đựng lam lũ để kiếm sống và chăm lo cho các con.  Đến năm 1978 nhà mẹ tôi bị đánh tư sản, đồ đạc trong nhà bị kiểm kê, tài sản mất hết!  Biết là không sống được với chế độ này, lần lượt mẹ tung các con, từng đứa, từng đứa tìm đường vượt biển, chỉ còn giữ cô út ở nhà với mẹ để chờ bố.  Cuối cùng, 11 anh em chúng tôi cũng đoàn tụ trên đất Mỹ, lần lượt lập gia đình và sống rải rác tại hai tiểu bang Texas và Cali.

 

Mãi đến ngày 20 Tháng Tư năm 1990, một bầy con cháu ra phi trường San Francisco để đón ông bà và dì Út từ Việt Nam sang đoàn tụ. Sau bao nhiêu năm chờ đợi, đến tuổi bẩy mươi ông bà mới được gặp đầy đủ các con, thêm dâu rể và mười hai đứa cháu. Tổng cộng nhân số đại gia đình lúc bấy giờ đã lên gần bốn mươi người. Cha mẹ tôi vẫn luôn mong muốn mỗi năm con cháu phải có một ngày họp mặt đông đủ, cả nhà quây quần với nhau như mộng ước của ông bà ngày trước. Từ khi chúng tôi còn nhỏ, anh con trưởng được cha tôi đặc biệt dạy dỗ và khi anh đi  du học thì tôi là con gái lớn được ông coi như cái đầu tầu của đoàn xe lửa nhiều toa của ông. Quan niệm của cha tôi là anh em, con cháu phải giữ sợi dây liên lạc chặt chẽ và phải sống đoàn kết, thương yêu, đùm bọc nhau.

 

Chúng tôi quyết định chọn ngày Thanksgiving, dịp mà mọi người đều được nghỉ và có một “long weekend” làm ngày họp mặt hàng năm của đại gia đình.  Những năm đầu, chúng tôi đã mướn một ngôi nhà thật lớn ở Lake Tahoe để cùng nhau đoàn tụ, chung sống dưới cùng một mái nhà. Cứ thế, như một truyền thống, không cần nhắc nhở mà cứ sau ngày Halloween là từ già đến trẻ, từ lớn đến bé đều kêu gọi nhau và ríu rít bàn về chương trình ngày “reunion”. Cô em thứ mười quen sinh hoạt Hướng Đạo, được giao vai trò trưởng ban tổ chức. Lịch trình sinh hoạt, thực đơn ăn uống và bảng phân công nhiệm vụ được niêm yết rõ ràng. Ngoại trừ các vị “bô lão”, tất cả mấy chục thành viên từ lớn đến nhỏ đều được giao việc hẳn hoi. Cô em Út rất chu đáo trong việc sắp xếp nơi ăn, chốn ở cho tất cả mọi người.

 

Những năm đầu tiên các cháu còn nhỏ nên dù đông nhưng cả đại gia đình  vẫn có thể ở chung trong một căn nhà rộng bẩy hoặc tám phòng. Đám cháu choai choai mỗi đứa một cái “sleeping bag”, nằm ngổn ngang ngoài phòng khách, cười đùa rúc rích với nhau.  Cha mẹ tôi rất vui sướng trong những ngày có con cháu sum họp đông đủ.

 

Tôi vẫn nhớ hình ảnh ông cụ mặc bộ pyjama trắng, đầu tóc bạc phơ ngồi bệ vệ trong chiếc ghế bành bên lò sưởi ngắm ba thế hệ con - cháu-chắt chơi đùa, bà ngồi trên thảm chơi với những đứa bé bò lổm ngổm xung quanh.  Ông bà ngắm nhìn con cháu với nụ cười mãn nguyện và hạnh phúc.  Ông luôn nhắc nhở con cháu phải nhớ đến cội nguồn và phải nói tiếng Việt với nhau, đứa nào nói tiếng Anh ông vờ như không hiểu để cháu phải nói lại bằng tiếng mẹ đẻ. Tôi nhớ có lần cả đám trẻ đang ngồi chơi, líu lo tiếng Mỹ, ông bác cả ra nhắc to: “Speak Vietnamese only!” thì thằng cháu con của một cô em tôi khi đó mới khoảng mười tuổi đứng ngay lên, tay chỉ vào đám “cousins”: “Người Vịt phải nói tiếng Vịt!” làm cả nhà cười bò, ông cụ quay qua nói với ông anh tôi: “Đúng là ông bác gà tồ!” và phì cười vì bác nhắc cháu mà chính bác lại nói tiếng Anh. “Gà Tồ” là bí danh của ông anh cả khi còn nhỏ.

 

Cha tôi rất quan tâm về học vấn và luôn nhắc nhở chúng tôi “tiên học lễ, hậu học văn”. Nhà đông con, lại là một bầy nhiều con gái, cha tôi muốn các con của ông phải tốt nghiệp đại học để có thể tự lập về tài chánh, sau này khi lập gia đình không phải quá lệ thuộc vào nhà chồng. Về nghề nghiệp ông cũng cho các con tự do lựa chọn theo ý thích để trong tương lai anh em sẽ họp thành một xã hội nhỏ với đủ ngành nghề hầu có thể hỗ trợ cho nhau. Ông luôn nhắc nhở con cháu là con người phải sống có đạo đức, lương tâm và trách nhiệm.  Những lời giảng dậy của ông như in vào tâm trí chúng tôi.

 

Cứ thế, mỗi năm chúng tôi sống với nhau dưới một mái nhà ba ngày liền tại Lake Tahoe.  Ngoài bữa “Thanksgiving Dinner” chính với đầy đủ những món ăn đặc biệt cho ngày lễ: gà tây, thịt nguội, roast beef, khoai nghiền, đậu ve, cranberry sauce, salad, pumkin pie...nhà lúc nào cũng có một nồi phở thật lớn trên bếp và đồ ăn, bánh trái ê hề.

 

Sau mỗi bữa ăn, anh chị em quây quần quanh chiếc bàn dài chuyện trò, tán dóc như ngày xưa còn bé.  Có những năm tuyết trắng xóa, cả nhà ngồi bên lò sưởi bập bùng, ngắm tuyết rơi... không ngờ có ngày mình đã được sống trong cảnh thần tiên như thế. 

 

Đến năm 2014, vì duyên may, cô em Út của chúng tôi thấy một toà nhà lớn ở Colfax, miền bắc Cali quảng cáo “for sale”, nhà hai tầng rộng 9,000 square feet, có 15 phòng ngủ với nhà vệ sinh tiện nghi, nhà bếp và phòng ăn rộng rãi thoáng mát chứa được năm đến sáu chục người, toạ lạc trên một khu đất rộng hơn mười mẫu mà ngày trước từng là một “senior home”. Nghĩ tới Đỗ Gia Trang, nhớ đến nguyện ước của bố, cô Út đã mua và đem hết “saving” ra tân trang thành một căn “vacation home” có một không hai và hãnh diện vẽ bảng “Đỗ Gia Trang”treo ngay lên cổng vào tòa nhà. Thế là từ đó, Đỗ gia Trang- Colfax đã trở thành nơi tụ họp cố định coi như nhà tổ để cứ mỗi muà Thanksgiving là con cháu Đỗ Gia từ khắp mọi nơi lại “tung cánh chim tìm về tổ ấm”.

 

Theo thời gian cha mẹ tôi lần lượt quy tiên, ông anh cả và một cô em gái cũng đã ra người thiên cổ. Thế nhưng, tre già thì măng mọc, lá vàng rơi thì cây non lại đâm chồi.  Mỗi năm lại thêm mấy đứa bé ra đời, Đỗ Family ngày càng thêm đông. Đến nay tổng cộng đã hơn 60 thành viên. Mấy cô em tôi phải vẽ ra một “Family Tree” để mỗi khi gặp nhau lại đem ra làm màn đố vui cho bọn trẻ biết đến liên hệ họ hàng.

 

Ngày họp mặt Thanksgiving mỗi năm chúng tôi lại nhắc nhở và tri ân ông bà.  Ông Bà như tổ tiên của dòng họ Đỗ trên miền đất mới. Nhờ ông bà khuyến khích mà con cháu giữ được ngày truyền thống đáng quý này.  Cám ơn đất nước Hoa Kỳ, quê hương thứ hai đã cưu mang chúng tôi và cho chúng tôi cơ hội vươn lên, thành đạt, có một cuộc sống an bình, một tương lai phơi phới.  Chúng tôi nhắc đến những người đã khuất, thêm tên thành viên mới.  Xem lại những kỷ niệm cũ qua những hình ảnh, video để các người mới gia nhập vào đại gia đình như các cháu dâu, cháu rể và các chắt của ông bà biết về nguồn cội. Ban ngày thì từng nhóm có những sinh hoạt phù hợp với lứa tuổi. Tối đến có màn văn nghệ cho mọi người thi thố tài năng và sau đó lập sòng tại chỗ cho mấy người lớn sát phạt nhau, dù ăn thua chỉ vài chục bạc nhưng lọt sàng xuống nia, ở nhà vui cười, đùa giỡn với nhau chứ không đi cúng cho casino bên ngoài!

 

Thấm thoắt thế là một năm đã trôi qua,  bây giờ đã bước sang Tháng Mười Một của năm 2021 chị em chúng tôi lại bàn nhau cho Thanksgiving năm nay.  Chúng mình có rủ nhau về tụ họp ở Đỗ Gia Trang không? Tình hình dịch bệnh Covid-19 đã được ổn định chưa?

 

Sự đe dọa của Covid khiến mọi người vẫn ngơm ngớp lo lắng, lại thêm những biến thể nguy hiểm của con vi khuẩn khiến còn những ngại ngùng.

 

Bạn tôi có một ông bác năm nay sinh nhật 110 tuổi vào Tháng Sáu, lúc cơn dịch đã giảm và mọi người đã được chích ngừa đủ hai mũi vaccine, sự đi lại cũng được nới lỏng nên con cháu từ khắp các tiểu bang quyết định cùng về thăm cụ để chúc mừng Đại Thọ.  Nào ngờ sau cuộc họp mặt hơn bốn mươi người đó khi về lại nhà thì 12 người bị dương tính với Coronavirus kể cả cụ ông.  May mắn là cụ ông bị nhẹ nhất nên chỉ bị cách ly tại nhà còn những người kia phải uống thuốc và sau hai tuần cũng mạnh khỏe và bình phục hoàn toàn.  Nghe chuyện cũng ớn quá!

 

Sau vài buổi hội họp, cân nhắc, bàn tán qua “Zoom meeting”, chúng tôi quyết định sẽ tổ chức “Đỗ Family Reunion” năm nay.  Trừ những tiểu gia đình có con nhỏ chưa được chích ngừa, đại gia đình họ Đỗ sẽ lại hội ngộ, chung sống với nhau dưới cùng một mái ấm của Đỗ Gia Trang, Colfax- California suốt bốn ngày lễ Thanksgiving.

 

Suốt mấy tuần lễ qua, chị em chúng tôi đều háo hức, nôn nóng được gặp lại nhau “in real life”.

 

Tôi nhớ, thật nhớ đến những ngày Thanksgiving tụ họp đại gia đình.   Ước mong sao năm nay chúng tôi có thể tụ về đông vui được như những năm trước. Từng khuôn mặt các em, các con, các cháu hiện lên rõ nét. Cô em thứ mười của tôi với chương trình “Ước Mơ Việt” nếu gặp được các cháu, học trò của bà trẻ bằng xương bằng thịt mà khảo bài thay vì qua zoom thì vui biết mấy.  Cô em thứ tám đang vui với buổi văn nghệ “Muà Thu Cho Em” thành công rực rỡ dù nạn dịch chưa hết có thể gặp chị em mà kể những kỷ niệm đằng sau hậu trường. Chồng của cô em kế tiếp tôi, chủ tịch Hội Chu Văn An miền bắc Cali cũng đang vui với sự thành công của Đại Hội Chu Văn An toàn cầu năm nay được tổ chức tại San Jose có dịp chia sẻ niềm vui trực tiếp với cả đại gia đình...

 

Hơn 4 giờ chiều trời vẫn xám buồn, những vạt nắng vàng hanh còn đi trốn.  Tôi ngồi đây bâng khuâng thả hồn về ngày tháng cũ.  Nhớ lại những ngày đầu mùa dịch.  Khi có lệnh giới nghiêm mọi người phải ở yên trong nhà, không khí thê lương, hoảng sợ bao trùm.  Nhìn đâu cũng như thấy những con vi khuẩn lơ lửng bay.  Ở trong nhà mà ngày nào tôi cũng lấy Clorox lau chùi cẩn thận từ cái chốt nắm tay cửa đến mặt bàn và hễ cứ ra vào là phải rửa tay thật kỹ bằng thuốc sát trùng.

 

Sau vài tháng không ra tới cửa nên gần như ai cũng biếng để ý tới dung nhan, tóc tai lởm chởm nửa trắng nửa đen, quần áo lôi thôi, lếch thếch.  May là còn phone, còn internet nên bạn bè vẫn còn liên lạc tán dóc với nhau.  Một ngày tôi còn cuộn mình trong chăn, giường gối còn bừa bộn ngổn ngang thì một bà bạn bên Texas gọi phone, chả biết sao đụng nhầm nút facetime, cả hai đứa cùng rú lên rồi cười khanh khách khi thấy hai mụ già đối diện nhau... hahaha...”tao nhìn mày tao mới thấy tao! Sao mình già thế!”

 

Cô con gái phone hẹn sang đưa mẹ mấy cái khẩu trang đẹp mà một người bạn mới tặng, vài món thịt cá và rau tươi mới đi chợ về, vừa mở cửa ra cô đã thốt lên:

 

“Sao tóc mẹ bạc phơ thế, mẹ ăn mặc bê bối quá trông mẹ già sộc hẳn đi.  Mẹ chịu khó nhuộm tóc, ăn mặc đàng hoàng như mọi khi đi.” 

 

Vào tự nhìn mình trong gương cũng thấy dung nhan sầu thảm thật. Mình tự nghĩ cả ngày ở nhà có đi đâu mà phải sửa soạn, quanh qua nhìn lại cũng chỉ có hai ông bà già nhìn nhau.

 

Thằng con Út mới khôi hài, cháu mới ra trường đang tìm việc làm, text cho cả nhà khoe hôm nay interview online, nửa trên bảnh chọe còn khi đứng lên thì nửa dưới chàng vẫn để nguyên cái quần xà lỏn!

 

Ngoài những điều không vui về muà dịch cũng có những khía cạnh lạc quan. Gia đình gần gũi nhau hơn, có nhiều thì giờ với nhau hơn, có những bữa cơm gia đình cả nhà quây quần và mấy bà mẹ trẻ chịu khó nấu nướng hơn.  Bọn già chúng tôi thì bầy nhau ủ giá, tráng bánh cuốn, đổ bánh xèo, làm bánh dầy, bánh rợm... Con cháu không dám sang nhà ông bà thì bà chỉ gọi cho biết rồi nói sang nhà bà lấy, bà để sẵn trước cửa.

 

***

 

Hai ngày vừa qua mưa gió lê thê.  Hôm nay bầu trời sáng, những vạt nắng vàng hanh bao phủ cảnh vật đem tươi vui đến muôn loài, tôi khoác chiếc áo len mỏng ra sân sau hưởng chút nắng ấm. Dạo này buổi sáng tôi thường nghe một buổi nói chuyện của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc hoặc một buổi pháp thoại của Thầy Pháp Hòa, tôi thấy tâm thật thanh thản an bình. Tôi nhớ nhiều đến  những lời dặn dò của cha tôi khi chúng tôi mới lớn “ Hãy là một viên gạch tốt.  Mỗi đơn vị gia đình của các con hãy cố gắng là một viên gạch tốt, tất cả đều là gạch tốt thì xã hội, quốc gia sẽ là một ngôi nhà vững bền, đẹp đẽ, hoàn hảo.”

 

Thanksgiving là mở đầu cho mùa lễ hội, mùa của tình yêu thương và sự chia sẻ.  Xin mọi người hãy dừng lại, hãy nhìn vào bản thiện và lòng nhân trong mỗi chúng ta để khép lại những hỉ nộ ái ố của năm, tháng vừa qua.  Hãy hàn gắn những rạn nứt trong tình cảm gia đình, bạn bè... nếu đã lỡ xảy ra, trước khi quá muộn.  Hãy cùng người thân hưởng thụ một mùa lễ Tạ Ơn thật đúng nghĩa dù vẫn còn trong hoàn cảnh khó khăn vì đại dịch. Happy Thanksgiving đến tất cả mọi người, mọi nhà!

 

Đỗ Dung

25/11/2021

 Sưu tầm từ  Internet

NHÂN QUẢ

Tâm Minh Ngô Tằng Giao


     Câu chuyện thứ nhất xin kể về ông Gandhi. Ông là một vị anh hùng của dân tộc Ấn Độ, ông đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân của Đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ nhiệt liệt của hàng triệu người dân. Ông được dân Ấn Độ gọi một cách tôn kính là “Linh hồn lớn”, “Vĩ nhân”, “Đại nhân” hoặc là “Thánh Gandhi”.

 

     Người ta kể chuyện là có thời ông Gandhi đi một chuyến xe lửa. Khi xe bắt đầu chuyển bánh thời ông nhảy vội vã lên tàu khiến cho một chiếc giày của ông rơi xuống đường. Ông không thể nào nhảy xuống để nhặt lại chiếc giày trong khi tàu chạy càng lúc càng nhanh. Ông bèn tháo luôn chiếc giày còn lại trong chân và ném về phía chiếc giày kia ở dưới đường. Hành khách trên tàu tỏ vẻ ngạc nhiên khi nhìn thấy thế và lấy làm lạ về hành động kỳ quặc của ông.

 

     Gandhi mỉm cười và ôn tồn giải thích rằng: “Nếu có một người nghèo nào lượm được chiếc giày thứ nhất thì người đó có thể tìm thấy chiếc thứ hai và như thế là có được đủ đôi giày để đi.”

 

     Chúng ta ít khi nghĩ đến các người khác mà thông thường chỉ nghĩ về chính bản thân mình mà thôi. Khi bị mất mát thì điều đầu tiên chúng ta nghĩ đến là những thiệt thòi và bất hạnh của mình. Kế đó mất thêm nhiều thời gian nữa để nuối tiếc, than thở, rồi sinh ra chán nản. Nhiều khi trở nên bực bội và gắt gỏng nữa.

 

     Gandhi đã có một hành động thật cao quý vì trong khi bản thân mình bị mất mát như thế, ông vẫn để tâm nghĩ đến người khác. Hành động này chứng tỏ việc nghĩ đến người khác đã trở thành một phần trong tâm tưởng và nguyên tắc sống của ông.

 

     Nếu trong những lúc mà chúng ta được sống an bình và thành công mà chúng ta còn không quan tâm tới những kẻ bị bất hạnh hơn mình thì liệu khi gặp gian khó, mất mát, ta có thể làm được điều đó hay không? Trong xã hội, xung quanh chúng ta hàng ngày có biết bao nhiêu người thiếu thốn đang cần sự giúp đỡ. Những gì họ cần đến không nhất thiết phải luôn luôn là vật chất, nhiều khi họ chỉ cần một lời động viên an ủi. Cõi ta bà này sẽ hạnh phúc biết bao nếu mỗi chúng sinh không chỉ chăm lo cho lợi ích riêng mình mà còn chăm lo cho lợi ích của người khác nữa.

 

***

      Câu chuyện thứ hai liên quan tới vị danh tướng Dwight Eisenhower. Ông  là một vị tướng 5 sao trong Lục quân Hoa Kỳ và là Tổng thống Hoa Kỳ thứ 34 từ năm 1953 đến 1961. Trong thời Đệ nhị Thế chiến, ông phục vụ với tư cách là tư lệnh tối cao các lực lượng đồng minh tại Châu Âu, có trách nhiệm lập kế hoạch và giám sát cuộc tiến công xâm chiếm thành công vào nước Pháp và Đức năm 1944–45 từ mặt trận phía Tây

 

     Vào thời xa xưa đó, một hôm ông Eisenhower cùng với đoàn tùy tùng của ông vội vã lái xe về tổng hành dinh quân đội ở Pháp để tham dự một cuộc họp khẩn cấp. Lúc đó trời đang mùa đông lạnh buốt lại thêm mưa tuyết rơi phủ đầy khắp nơi. Xe đang chạy thì ông bất ngờ để ý nhìn thấy có hai vợ chồng già người Pháp ngồi ở bên lề đường đang run rẩy vì cái lạnh giá buốt. Ông lập tức ra lệnh cho đoàn tùy tùng ngừng lại và muốn phái một thông dịch viên tiếng Pháp tới hỏi thăm cặp vợ chồng này. Một viên tham mưu nhắc nhở ông là nên để cho nhân viên công lực tại địa phương lo chuyện này, phái đoàn phải đi nhanh lên vì sợ trễ cuộc họp. Ông nói nếu đợi cảnh sát địa phương tới thì sợ là quá muộn và hai người này sẽ chết cóng.

 

     Sau khi hỏi thăm, ông Eisenhower biết được là họ đang muốn tới Paris để gặp con trai nhưng xe của họ bị chết máy giữa đường. Ông bảo hai vợ chồng già mau lên xe của ông. Ông không hề quan tâm đến chức phận của ông và không hề tỏ thái độ gì trước hai kẻ đang gặp nạn này. Ông chỉ theo bản tính lương thiện vốn sẵn có của ông là luôn luôn muốn giúp đỡ người hoạn nạn mà thôi. Ông liền ra lệnh thay đổi lộ trình, đưa cặp vợ chồng tới Paris trước, rồi ông và đoàn tùy tùng mới lái xe tới tổng hành dinh để dự cuộc họp.

 

     Không ngờ chính sự chuyển hướng đi thình lình ngoài kế hoạch này đã cứu mạng ông! Quân Quốc Xã có tin tình báo nên biết chính xác hành trình của ông và đã bố trí sẵn các tay súng bắn tỉa nấp rình tại các ngã tư. Nếu ông tới thì sẽ bị hạ sát ngay chỗ đó. Nhưng hóa ra chỉ nhờ vào cái tâm  lương thiện, cái lòng từ bi đã giúp ông đổi lộ trình và tránh thoát cuộc mưu sát này. Quả là tự cứu mình bằng cách giúp người khác.

 

***

 

     Câu chuyện thứ ba kể về một cậu bé nhà nghèo tên là Howard Kelly. Quá nghèo nên hàng ngày cậu thường phải đến gõ cửa từng nhà để bán báo trên đường đi tới trường học của mình.

 

     Một hôm cơn đói nổi lên thình lình, cậu thò tay vào túi thì thấy chỉ có một đồng duy nhất cuối cùng. Đồng tiền này cậu định dành lại để mua thức ăn cho mấy đứa em ở nhà. Sau vài giây phút lưỡng lự cậu quyết định đi tới ngôi nhà ở phía trước để xin chút đồ ăn. Nhưng người mở cửa cho cậu lại là một cô bé xinh đẹp và dễ thương. Cậu tỏ ra bối rối và ngại ngần, nên cậu chỉ dám mở miệng xin một cốc nước để uống mà thôi.

 

     Cô bé trông thấy cậu có vẻ nghèo nàn và đang mệt lả đi vì đói nên thay vì mang nước cô lại đem cho cậu một cốc sữa lớn. Cậu từ từ uống một cách ngon lành rồi mới rụt rè khẽ hỏi cô gái: “Tôi nợ cô bao nhiêu?” Cô gái trả lời: “Bạn không nợ nần gì tôi cả. Mẹ tôi đã dạy là không bao giờ làm điều tốt mà còn chờ được trả công.” Cậu cảm động nói: “Tôi thành thực biết ơn cô.”

 

     Sau khi rời khỏi ngôi nhà cô bé tốt bụng đó, cậu Howard Kelly không chỉ cảm thấy cơ thể khỏe khoắn trở lại mà cậu còn có lòng tin tưởng hơn vào từ tâm của con người. Điều này giúp ý chí cậu mạnh mẽ thêm lên và không chịu khuất phục số phận hẩm hiu của mình.

 

     Nhiều năm sau đó, cô gái trẻ nói trên mắc phải một căn bệnh rất hiểm nghèo. Các bác sỹ tại địa phương đã cố gắng nhưng đành bó tay, không thể làm thuyên giảm bệnh. Cuối cùng họ quyết định chuyển cô lên bệnh viện thành phố nơi có nhiều chuyên gia mong chữa khỏi bệnh cho cô.

 

     Trong số các bác sỹ được mời tới hội chẩn có một người tên là Howard Kelly. Khi nghe tới cái tên nơi quê quán của cô gái, một tia sáng chợt lóe lên trong ký ức của Kelly. Kelly vội đứng dậy, chạy xuống phòng cô gái. Bước tới gần giường bệnh ngay lập tức Kelly đã nhận ra đó chính là cô gái cho mình sữa ngày xa xưa. Kelly quay trở lại phòng hội chẩn và đề nghị được là người phụ trách ca bệnh đó.

 

     Kelly làm hết sức mình với một sự quan tâm đặc biệt để chữa bệnh cho cô gái. Sau một thời gian chống chọi bệnh tình cô thuyên giảm và cuối cùng là khỏi bệnh hoàn toàn.

 

     Trước ngày cô gái xuất viện, bác sỹ Kelly đã yêu cầu nhân viên quầy thu ngân chuyển hóa đơn tới bàn giấy của mình. Kelly viết ít chữ lên trên hóa đơn trước khi nó được gởi tới phòng bệnh để trao cho cô gái.

 

     Khi mở ra đọc cô gái thầm nghĩ rằng có lẽ cô sẽ phải ra sức làm việc cả đời mới trả hết món tiền này. Nhưng cô thật sự ngạc nhiên khi đọc thấy trên phần đầu hóa đơn đã ghi sẵn dòng chữ: “Hóa đơn đã được thanh toán bằng một ly sữa”. Và người ký tên là: “Bác Sỹ Howard Kelly.”

 

***

 

     Câu chuyện thứ tư xảy ra tại Đại học Stanford vào năm 1892. Thời đó có một học sinh 18 tuổi gặp khó khăn trong việc trả tiền học. Là một trẻ mồ côi anh ta không biết đi nơi đâu để kiếm ra tiền, anh bèn nảy ra một sáng kiến. Anh cùng một người bạn khác quyết định tổ chức một buổi nhạc hội ngay trong khuôn viên trường để gây quỹ cho việc học.

 

     Họ đến mời Ignacy J Paderewski, một nghệ sĩ dương cầm đại tài. Người quản lý của Paderewski yêu cầu một khoản tiền là $2000 cho buổi biểu diễn. Sau khi họ thỏa thuận xong, hai người sinh viên bắt tay ngay vào công việc chuẩn bị buổi trình diễn. Ngày ấy cuối cùng đã đến. Paderewski đã tới biểu diễn tại Stanford. Nhưng không may là vé không bán được hết. Sau khi tổng kết số tiền bán vé họ chỉ có được $1600. Họ thất vọng, đến để trình bày hoàn cảnh của mình với Paderewski. Họ đưa cho ông toàn bộ số tiền bán vé, cùng với một check nợ $400 và hứa rằng họ sẽ cố gắng trả số nợ ấy thật sớm.

 

     Không ngờ Paderewski lại xé bỏ tờ check, trả lại số tiền cho hai chàng thanh niên và nói: “Hãy giữ lấy 1600 đô này, sau khi trừ hết tất cả các chi phí cho buổi biểu diễn còn bao nhiêu các cậu cứ giữ lấy cho việc học. Còn dư bao nhiêu nữa thì mới đưa cho tôi.” Hai chàng thanh niên vô cùng bất ngờ, xúc động nói lời cảm ơn…

 

     Đây chỉ là một việc nhỏ, nhưng đã chứng minh được nhân cách tuyệt vời của Paderewski. Ông giúp hai người mà ông ấy không hề quen biết. Trong cuộc sống hầu hết chúng ta đều nghĩ: “Nếu giúp họ, chúng ta sẽ được gì?” Nhưng những người vĩ đại lại nghĩ khác: “Nếu mình không giúp họ, điều gì sẽ xảy ra với những con người đang gặp gian khó này?” Người có từ tâm giúp ai không mong đợi sự đền đáp và chỉ nghĩ đó là việc nên làm mà thôi.

 

     Người nghệ sĩ dương cầm tốt bụng Paderewski nói trên sau này trở thành Thủ Tướng của nước Ba Lan. Ông là một vị lãnh đạo tài năng. Không may chiến tranh thế giới bùng nổ và đất nước của ông bị tàn phá nặng nề. Hơn một triệu rưỡi người dân đang bị chết đói. Chính phủ của ông không còn tiền. Không biết đi đâu để tìm sự giúp đỡ ông bèn đến Cơ Quan Cứu Trợ Lương Thực Hoa Kỳ để nhờ trợ giúp.

 

     Người đứng đầu cơ quan đó chính là Herbert Hoover, người sau này trở thành Tổng Thống thứ 31 của Hoa Kỳ. Ông Hoover đồng ý giúp đỡ và nhanh chóng gửi hàng tấn lương thực để cứu giúp những người Ba Lan đang bị đói khát ấy. Cuối cùng thì thảm họa cũng đã được ngăn chặn.

 

     Thủ Tướng Paderewski lúc bấy giờ mới cảm thấy thoải mái. Ông bèn quyết định đi sang Hoa Kỳ để tự mình cảm ơn ông Hoover. Thế nhưng khi Paderewski chuẩn bị nói câu cảm ơn thì ông Hoover vội cắt ngang và nói: “Ngài không cần phải cảm ơn tôi đâu. Có lẽ ngài không còn nhớ, nhưng vài năm trước, ngài có giúp đỡ hai cậu sinh viên trẻ tuổi ở bên Mỹ được tiếp tục đi học, và tôi là một trong hai chàng sinh viên đó đấy.”

 

***

 

     Thế giới này quả là một nơi tuyệt vời. Bạn cho đi thứ gì thì sẽ nhận được những điều tốt đẹp đáp lại! 

(The world is a wonderful place. What goes around comes around!)

 

     Người ta cũng còn nhớ ông Winston Churchill từng nói đại ý rằng chúng ta sinh sống bằng những gì chúng ta kiếm được, nhưng chúng ta tạo lập đời mình bằng chính những gì mà chúng ta bố thí. Sống trên đời phải có một chút gì cho đi. Một chút đó chính là cái mình cố gắng (We make a living by what we get, but we make a life by what we give.)  

 

     Quả thật Đức Phật đã từng khuyên dạy chúng sinh là hãy chăm tu tập “Tứ Vô Lượng Tâm”, tức là “bốn món tâm rộng lớn không lường được”, đó là các tâm “Từ, Bi, Hỷ, Xả”. Riêng tâm “Từ” là khả năng hiến tặng niềm vui cho tha nhân, cho người khác, lòng lành giúp ích cho người, lòng thương yêu, chúng sinh, lòng mong ước cho tất cả chúng sinh đều được an lành vui vẻ. 

 

     Tâm từ không phải là sự yêu thương thiên về xác thịt, về tình dục, cũng không phải là lòng trìu mến vị kỷ, lòng luyến ái đối với riêng người nào. Tâm từ không phân biệt kẻ thân người sơ, không dành riêng cho tình đồng chí, đồng chủng, cũng không dành riêng cho tình đồng hương hay đồng đạo. Hơn nữa tâm từ không phải chỉ nên có giữa người và người mà phải bao trùm tất cả chúng sinh, bởi vì, loài cầm thú cũng cần đến sự giúp đỡ và tình thương.

 

     Nói tóm lại, tâm từ bao la, rộng rãi, trải ra đồng đều, không còn sự khác biệt giữa mình và người. Cái gọi là “ta” không còn nữa. Mọi sự chia rẽ đều biến mất như đám sương mù tan trong nắng sáng. Vạn vật trở thành một, đồng thể, đồng nhất.

 

     “Kinh Pháp Cú” cũng nói đến “Luật Nhân Quả”. “Nhân” nghĩa là nguyên nhân, là hạt, tức hạt giống sinh ra một vật hữu hình hay là sức mạnh sinh ra một vật vô hình. “Quả” là kết quả, là trái, tức là kết quả hữu hình hoặc vô hình của một hạt đã gieo trồng. Nhân là năng lực phát động, quả là sự hình thành của năng lực phát động ấy. Nhân và quả là hai trạng thái tiếp nối nhau mà có. Nếu không có nhân thì không có quả, nếu không có quả thì không có nhân. Định luật hiển nhiên này mọi người đều nhận thấy. Định luật nhân quả liên tục kéo dài vô cùng tận, như những lượn sóng chập chùng trên mặt đại dương.

 

     Theo “Luật Nhân Quả” một khi đã làm lành, đã hành động thiện, thời quả lành sẽ chờ đợi chúng ta.

 

(Pháp Cú 68)

 

Việc làm rất thiện, rất lành

Nếu làm xong thấy lòng mình thảnh thơi

Chẳng ăn năn, lại mừng vui

Tương lai quả báo đẹp tươi tốt lành.

 

     Khi đã làm lành, đã tạo các nghiệp hiền thiện, người ta có quyền thốt lên nỗi niềm sung sướng an vui khi nhìn thấy kết quả tốt của nghiệp thiện mà mình tạo ra. Một người từng có tâm đạo nhiệt thành và có đời sống đạo hạnh. Ông thường hay bố thí, lại hay dưng thực phẩm và cúng dường các vật dụng cần thiết cho chư Tăng. Các con ông tất cả đều giống tính cha, biết giữ gìn giới đức và chăm lo bố thí. Khi đang hấp hối trên giường, ông thỏa thích nhìn thấy những cảnh trạng hạnh phúc. Sau khi trút hơi thở cuối cùng một cách an vui người ấy tái sinh vào nhàn cảnh. Đức Phật dạy kẻ làm phước, làm thiện sẽ đươc an vui trong kiếp này và kiếp sau, suốt hai kiếp đều an vui. Cả hai đời hạnh phúc vì đã tạo phước, và còn hạnh phúc hơn nữa khi kiếp sau được sinh vào cõi lành.

 

(Pháp Cú 16)

 

Vui mừng ngay ở kiếp này

Kiếp sau cũng lại tràn đầy mừng vui:

Người làm điều thiện ở đời

Thấy chân hạnh phúc khắp nơi theo mình

Quay nhìn việc thiện tạo thành

Sướng vui dào dạt, an lành chứa chan.

 

     Muốn cho niềm an vui tồn tại lâu dài, muốn nuôi dưỡng thiện nghiệp, người trí cần hướng thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp về các việc lành. Người trí chẳng những lo kiểm soát Thân mà còn lo điều phục, bảo vệ Tâm và Ý nữa:

 

(Pháp Cú 18)

 

Đầy tràn vui sướng kiếp này

Sướng vui cũng lại tràn đầy kiếp sau:

Người làm nghiệp thiện vui sao

Nhủ lòng: “Mình tạo biết bao phước lành!”

Kiếp sau sẽ được tái sinh

Vào nơi hạnh phúc an bình chứa chan.

 

     Các câu chuyện về các nhân vật có thật trong xã hội được kể ở trên quả thật một lần nữa khiến chúng ta thấm thía về những lời dạy vàng ngọc của Đức Phật về “Nhân” và “Quả”.

                                                

Tâm Minh Ngô Tằng Giao 

(12 - 2014)



 

Sưu tầm từ Internet

KHI NGƯỜI TA BỊ TỔN THƯƠNG!


 

 

Trong cuộc sống này đến một lúc nào đó ta sẽ bị người khác làm tổn thương... Gia đình, bạn bè, người yêu...

 

Khi người ta bị tổn thương, người ta sẽ đánh mất niềm tin...

Khi người ta bị tổn thương, mọi thứ có thể lành theo thời gian, nhưng những vết sẹo sẽ còn mãi.

Khi người ta bị tổn thương, người ta sẽ đề phòng mọi thứ để không bị tổn thương lần thứ 2.

Khi người ta bị tổn thương, người ta sẽ phải chịu đau đớn về tinh thần, quỵ ngã...

Khi người ta bị tổn thương, người ta có thể làm những việc rất xấu, ích kỷ.

 

CON TIM THIÊN CHÚA LÀ NƠI TRÚ ẨN CỦA TỘI NHÂN Khi người ta bị tổn thương, người ta sẽ cố gắng vượt qua nhưng nó sẽ theo ta cả đời.

 

Khi người ta bị tổn thương, người ta cần mọi người ở bên để hàn gắn lại mọi thứ.

Ai trong đời chả bị tổn thương, chả bị đau đớn vì những điều đó.

Có người không vượt qua được.

Có người vượt qua được, nhưng ai dám chắc rằng khi người ta nhìn lại người ta không thấy đau.

Đừng trách những người làm tổn thương bạn. Hãy vượt qua, hãy cố gắng nhìn lại và coi nó như một bài học cho cuộc đời.

 

Đừng bao giờ nhìn vào một người và đánh giá người ta khi ngã, mà hãy nhìn và đánh giá khi người ta đứng lên sau khi ngã.

Và khi bạn bị tổn thương không có nghĩa là bạn được quyền làm ai khác tổn thương nữa...

 

 Sưu tầm