Sưu tầm từ Internet
CHA MẸ & CON CÁI
Ajahn Jayasaro
Diệu Liên Lý Thu Linh
dịch
Ajahn_JayasaroTỳ
Kheo Jayasaro (thế danh: Shaun Chiverton) sinh năm 1958, tại Anh Quốc. Năm 1978, ông tham dự khóa thiền tích cực với
Sư Sumedho, trải qua một mùa an cư tại đó (Thiền Viện Amaravati, Anh quốc).
Năm 1979, thọ giới
sa di tại thiền viện Nong Pah Pong, bang Ubon Rajathani, Thái Lan.
Năm 1980: thọ giới
tỳ kheo tại Nong Pah Pong với vị Thiền sư trưởng lão nổi tiếng, ngài Ajahn
Chah, là sư tế độ.
Từ năm 1997-2001:
trụ trì chùa Pah Nanachat (Lâm Tự Viện Quốc Tế), bang Ubon Rajathani, Thái Lan.
Nhiều năm trước
khi xuất gia, tôi đã tin rằng kinh nghiệm mang đến trí tuệ. Vì thế tôi rời bỏ quê hương Anh quốc để đi Ấn
Độ, lang thang đó đây để thu thập kinh nghiệm sống ở châu Âu và châu Á. Cuộc hành trình càng khó khăn, tôi càng thích
thú vì tôi cảm thấy những gian nan đó giúp tôi hiểu về bản thân hơn và chúng sẽ
đem lại lợi ích cho cuộc đời tôi.
Nhưng cuộc hành trình đến Ấn Độ khiến tôi
khá thất vọng. Nó chẳng có nhiều thử
thách như tôi mong đợi, nên trên đường quay trở về, tôi quyết định đi từ
Pakistan về Anh quốc trong khi túi không có đồng xu. Tôi muốn thử xem tôi có thể đi xe nhờ suốt chặng
đường về đó không, và tôi cũng muốn thử xem cảm giác sẽ thế nào khi không sở hữu
gì cả.
Thật là một cuộc mạo hiểm, có nhiều chuyện
tôi sẽ không bao giờ quên. Tôi muốn kể
cho bạn nghe một trong những chuyện đó.
Lúc tôi đến được Tehran –thủ đô của Iran –tôi hoàn toàn kiệt quệ. Tôi ốm như cây sậy, quần áo thì bẩn thỉu,
nhàu nát, chắc tôi trông ghê tởm lắm.
Chính tôi cũng bị sốc khi soi mình qua tấm gương ở một nhà vệ sinh công
cộng. Còn tâm tôi thì càng ngày càng giống
quỷ đói, nó luôn lo lắng về cái ăn: “Liệu hôm nay ta có được gì để ăn hay
không?” Bụng tôi được no hay bị đói tùy
vào lòng tử tế của đồng loại. Tôi phải dựa
vào parami (Ba-la-mật) của mình vì không có gì khác để dựa vào.
Cuối cùng cũng có một người Iran cảm thấy
thương hại tôi, đồng thời anh ta cũng coi đây là cơ hội để thực tập tiếng
Anh. Anh ta đãi tôi uống trà và cho tôi
một ít tiền. Ban đêm, tôi ngủ ngoài đường,
giấu mình trong những con hẻm nhỏ, vắng vẻ.
Tôi sợ cảnh sát sẽ đánh đuổi nếu họ bắt gặp tôi. Buổi sáng, tôi đến một quán súp mà tôi nhớ là
họ cho ăn bánh mì miễn phí. Khi đi dọc
theo đường phố, cố gắng không liếc nhìn vào các quán ăn hấp dẫn và không ngửi
theo những mùi đồ ăn ngào ngạt trong không khí, tôi phát hiện một phụ nữ đang
tiến bước về phía tôi. Bà có vẻ kinh
hoàng khi nhìn thấy tôi. Bà dừng bước lại,
trố mắt nhìn tôi một lúc, rồi bước đến chắn phía trước với vẻ mặt cau có. Bà ra dấu bảo tôi đi theo bà, với kinh nghiệm
của kẻ xin ăn, tôi làm theo ngay. Đi bộ
khoảng mười phút, chúng tôi đến một khu chung cư, rồi lên thang máy đến tầng thứ
tư. Tôi đoán là lên phòng bà, nhưng bà vẫn
chưa nói tiếng nào. Không có nụ cười
thân thiện nào, chỉ có vẻ mặt đầy sát khí.
Khi mở cửa ra, tôi thấy đúng là phòng
bà. Bà dẫn tôi vào nhà bếp, chỉ vào một
chiếc ghế, ra hiệu cho tôi ngồi xuống.
Sau đó bà mang ra cho tôi đủ loại thực phẩm. Tôi tưởng chừng mình đang ở thiên đàng. Tôi bỗng nhận ra rằng món ngon nhất trên đời
là món bạn được ăn khi thực sự đói khát, bao tử réo gọi từng hồi. Người phụ nữ gọi con trai ra, nói gì đó với cậu
mà tôi không hiểu, nhưng tôi thấy cậu khoảng tuổi tôi. Sau một lúc, cậu con trai trở lại với một bộ
quần áo. Khi thấy tôi đã ăn xong, người
phụ nữ chỉ về hướng nhà tắm, ra hiệu cho tôi đi tắm và thay bộ đồ mới. (Tôi đoán có lẽ bà định đốt bộ đồ cũ của
tôi). Bà không nói gì, chẳng hề cười, chỉ
ra dấu cho tôi hiểu bà. Trong lúc tắm,
tôi nghĩ có lẽ người phụ nữ nhìn tôi mà chạnh nghĩ đến con bà: “Sẽ ra sao nếu
con ta đi đến một xứ sở xa lạ và bị khốn khổ như thế?” “Nếu như con ta cũng lâm vào hoàn cảnh đáng
thương như thế, thì sẽ như thế nào?” Tôi
nghĩ là bà đã giúp đỡ tôi với tình thương của một người mẹ. Tôi quyết định tặng cho bà danh hiệu ‘Người Mẹ
Ba-tư đáng kính’ và tự mỉm cười một mình trong buồng tắm. Khi tôi đã xong xuôi mọi thứ, người phụ nữ dẫn
tôi về chỗ cũ, và bỏ tôi ở đó. Rồi bà hòa vào dòng người đang trên đường đến chỗ
làm. Tôi đứng đó nhìn bà lẫn vào đám
đông, và tận đáy lòng tôi biết rằng mình sẽ suốt đời không bao giờ quên ơn
bà. Tôi rất cảm động, mắt tôi đẫm lệ. Bà đã cho tôi quá nhiều dầu chúng tôi là hai
người hoàn toàn xa lạ. Lúc đó tôi ốm như
một xác chết khô, quần áo thì bẩn thỉu, hôi hám, tóc tai dài thượt, bù xù. Nhưng người phụ nữ ấy không hề quan tâm, bà
còn dẫn tôi về nhà và chăm sóc cho tôi như thể tôi là con bà, mà không hề mong
đợi bất cứ sự đền đáp nào –dầu chỉ là một lời cảm ơn. Đã hơn hai mươi năm qua, giờ tôi muốn nói cho
mọi người biết về vị bồ tát có nét mặt quạu quọ này, để mọi người biết rằng dầu
trong các thành phố lớn, cũng có những người tốt, và người tốt có thể còn nhiều
hơn chúng ta nghĩ.
Người phụ nữ đó không phải là người tốt bụng
duy nhất mà tôi đã được gặp. Tôi đã nhận
được sự tử tế và giúp đỡ của nhiều người ở những quốc gia mà tôi đã đặt chân tới
trên bước đường tìm kiếm kinh nghiệm sống, dầu tôi không hỏi xin họ bất cứ điều
gì. Điều đó khiến tôi quyết tâm là trong
tương lai nếu tôi ở vào hoàn cảnh có thể giúp đỡ người khác giống như thế, tôi
sẽ làm. Tôi muốn giúp đỡ để duy trì lòng
tử tế của con người trên thế giới. Xã hội
đôi khi có vẻ như là một nơi không có tình người, quá lạnh lùng, nhẫn tâm,
nhưng tôi nghĩ là mỗi người chúng ta ít nhất có thể cố gắng làm một ốc đảo nhỏ
trên sa mạc.
Tôi đã không về được tận Anh quốc. Tôi đánh mất hộ chiếu gần biên giới Thổ Nhĩ Kỳ,
nên phải quay về Tehran. Ở đó tôi làm
quen được với một số người và kiếm được công việc dạy tiếng Anh. Sau vài tháng, với ít tiền dính túi, tôi quay
trở về Ấn Độ. Ngày sinh nhật mười chín
tuổi tôi trải qua bên bờ hồ với một đạo sĩ Ấn Độ. Ông là một vị thầy tâm linh với cách tu hành
tương tự như của Phật giáo và ông đã dạy tôi rất nhiều điều. Khi sống cạnh ông, tôi có rất nhiều thì giờ để
quán chiếu về cuộc đời mình. Những buổi
chiều tôi thích leo lên ngọn núi gần đó, ngồi dưới một cây cổ thụ, tận hưởng
làn gió mát. Nhìn xuống dòng suối bên dưới
và bãi sa mạc trải dài đến tận chân trời giúp tôi suy nghĩ thấu đáo. Một ngày kia tâm tôi tràn đầy các câu hỏi. Tại sao tôi luôn xúc động mỗi khi nhớ đến sự
tử tế của những người đã giúp đỡ tôi trong suốt cuộc hành trình của mình, những
người đã cho tôi ăn hay ngủ một hay hai đêm- nhưng tôi chưa bao giờ cảm thấy
như thế đối với sự tử tế của cha mẹ tôi.
Họ đã chăm sóc cho tôi suốt mười tám năm, cho tôi ăn từng ngày –ba hay bốn
lần một ngày- vậy mà họ vẫn lo rằng thức ăn không đủ ngon cho tôi. Họ đã cho tôi quần áo, chỗ trú ngụ. Khi tôi ấm đầu xổ mũi, họ đem tôi đi bác sĩ,
còn khi tôi bệnh nặng dường như họ còn khổ hơn tôi. Vậy tại sao tôi chẳng bao giờ xúc động với những
việc như thế? Bỗng nhiên tôi cảm thấy
mình bất công một cách đáng xấu hổ. Tôi
nhận ra rằng tôi đã coi thường sự hy sinh của cha mẹ biết bao nhiêu. Lúc đó, dường như có một bờ đê vừa vụt vỡ
tung. Nhiều tấm gương về lòng biết ơn
(boon khoon) của cha mẹ tôi, lòng độ lượng, tử tế của họ tràn đầy tâm trí tôi,
quá ấn tưọng, quá bao la. Đó là khởi đầu
cho lòng biết ơn của tôi đối với cha mẹ.
Tôi tiếp tục quán tưởng đến việc mẹ tôi hẳn
đã phải chịu bao khó nhọc khi mang thai tôi.
Lúc đầu chắc bà đã bị hành buồn nôn mỗi sáng, thời gian sau thì đi đứng
trở nên khó khăn. Mọi chuyển động đều
đau đớn và không thuận lợi. Nhưng mẹ tôi
đã chấp nhận cái khổ này vì bà tin rằng có điều gì đó rất đáng công, và điều gì
đó chính là tôi.
Khi còn nhỏ, việc gì tôi cũng phải nhờ đến
cha mẹ, vậy mà không hiểu sao tôi coi chuyện đó là bình thường –phải đâu bổn phận
của họ là phải cung cấp, cưu mang, còn tôi chỉ có quyền nhận? Sau cùng, tôi nhận thức được rằng tôi có
duyên được tu tập theo Phật giáo để phát triển một nơi nương tựa thực sự ở bên
trong, là nhờ cha mẹ đã tạo cho tôi một chỗ nương tựa bền vững, đáng tin cậy ở
bên ngoài khi tôi còn trẻ. Họ đã thiết lập
cho tôi một nền tảng vững chắc để tôi có thể toàn tâm toàn trí tu tập, chiến đấu
với uế nhiễm.
Năm 20 tuổi, tôi đến Thái Lan để thọ giới xuất
gia. Cha mẹ tôi không phản đối vì họ muốn
cho con trai có thể sống theo ý nó muốn và được hạnh phúc. Cha mẹ tôi đã chọn điều đó thay cho những kỳ
vọng họ đã đặt vào tôi. Năm ngoái, mẹ
tôi đã thú nhận rằng ngày tôi ra đi là ngày buồn nhất trong đời của mẹ. Nghe vậy tôi rất xúc động. Điều gây ấn tượng ở tôi là mẹ đã rất chịu đựng
và che giấu nỗi khổ đau này suốt hai mươi năm vì mẹ không muốn tôi phải bức rức
vì chuyện này.
Sau khi đã trở thành tu sĩ, đôi khi tôi
không thể không tự trách mình. Khi còn sống
bên cạnh mẹ cha, mỗi ngày tôi đều có cơ hội để làm điều gì đó, hầu đáp lại chút
tình thương mà họ đã dành cho tôi, nhưng tôi hầu như chẳng làm gì cả. Giờ tôi ước muốn bày tỏ lòng biết ơn bằng
trăm ngàn cách thì lại không thể vì tôi đã là tu sĩ và sống cách xa họ hàng
ngàn dặm. Thật tệ hại. Tôi chỉ còn có thể làm những gì mà các vị tu
sĩ vẫn làm hơn hai ngàn năm nay, là rải tâm từ đến cho họ mỗi ngày.
Ở Thái Lan chúng tôi thường nghĩ tưởng đến
‘boon khoon’ (công ơn) cha mẹ. Boon
Khoon là niềm tin rằng mỗi khi ta nhận được sự giúp đỡ, lòng tử tế của ai đó –nhất
là khi được ban tặng- là chúng ta đã mang một cái ơn. Thiện nhân là người biết trọng ơn nghĩa, và
ơn nghĩa sâu dày nhất trong tất cả mọi ơn nghĩa là ơn nghĩa đối với cha mẹ. Đức Phật đã dạy chúng ta phát triển lòng biết
ơn sâu sắc đến với cha mẹ, và ý hướng đáp trả ơn cha mẹ bằng những phương cách
tốt nhất mà chúng ta có thể thực hiện.
Lúc nhỏ, tôi đã không được dạy dỗ về các giá
trị này. Dĩ nhiên, trong nền văn hóa
phương Tây cũng có tình thương yêu, gắn bó giữa cha mẹ và con cái, nhưng nói
chung sự quan tâm, lòng biết ơn lẫn nhau thường ít được coi trọng. Trong khi các giá trị khác như là sự tự do cá
nhân, tính tự lập thì lại được chú trọng hơn.
Tình cảm thâm sâu, gắn bó giữa cha mẹ và con cái có thể cũng được nhiều
người cảm nhận, nhưng nó không được truyền thông rộng rải như một đạo lý chung
trong xã hội như trong văn hóa Phật giáo, thí dụ như ở Thái Lan.
Việc chúng ta phải coi trọng công ơn cha mẹ
có thể được tìm thấy trong giáo lý của Đức Phật về Chánh kiến trong đời sống thế
tục, nền tảng giúp ta hiểu điều này điều nọ trong cuộc sống. Trong kinh điển Pali, Đức Phật dạy rằng ta phải
tin rằng cha ta là thật, mẹ ta là thật.
Có thể bạn sẽ bỡ ngỡ khi đọc điều này phải không? Tại sao Đức Phật phải dạy chúng ta một điều
quá hiển nhiên? Có ai không biết rằng
mình được sinh ra trong cõi đời này là vì cha mẹ mình thực sự có?
Chúng ta cần phải hiểu rằng những lời dạy đó
chỉ là ẩn dụ thôi. Điều Đức Phật muốn dạy
là chúng ta cần phải biết rằng có một ý nghĩa đặc biệt trong quan hệ giữa cha mẹ
và con cái, một ý nghĩa mà ta phải chấp nhận và tôn trọng. Mối liên hệ giữa cha mẹ và con cái thật sâu sắc
và huyền bí. Đức Phật dạy rằng không có
nghiệp báo nào nặng hơn hành động giết cha hay mẹ. Trong từ ngữ Pali đó là anantariya kamma
–nghiệp này nặng nề đến nỗi người gây nghiệp không thể nào tránh khỏi những hậu
quả gớm ghê, dầu người đó có thật tâm hối hận đến mức độ nào. Như thế khi Angulimala có thể trở thành một vị
A-la-hán dầu đã giết 999 người, thì điều đó sẽ không thể xảy ra nếu ông giết chỉ
một người, mà người đó là cha hay mẹ ông.
Đức Phật không dạy về mối liên hệ thâm sâu
này như là một phương tiện thiện xảo để quảng bá các giá trị trong đời sống gia
đình. Nhưng đó là một chân lý vượt thời
gian mà Ngài đã khám phá ra và sau đó truyền dạy lại vì lợi ích của chúng
sanh. Giáo lý quan trọng đó dạy rằng mối
liên hệ giữa cha mẹ và con cái rất sâu dày và có thể đã diễn ra qua nhiều kiếp
sống. Do đó, chúng ta phải chấp nhận,
tôn trọng, và gìn giữ mối liên hệ đó.
Tóm lại, có thể nói rằng chúng ta được sinh
ra trong kiếp này là để tiếp tục ‘công việc còn dang dở’ đối với mẹ cha. Có khi công việc còn dang dở này được thể hiện
ra một cách không tốt đẹp, như khi đứa bé bị cha mẹ bỏ rơi, hay bị cha mẹ bạo
hành thân xác hay tâm hồn. Có những hoàn
cảnh như thế, và dường như ngày càng nhiều hơn.
Nhưng những điều tệ hại mà cha mẹ có thể mang đến cho con cái như thế
cũng không xóa bỏ được mối liên hệ thâm sâu này. Kiếp sống này chỉ như là một cảnh trong một
trường kịch, chúng ta không biết điều gì đã xảy ra trong những kiếp quá khứ. Sống trong một xã hội nhân ái, dĩ nhiên chúng
ta phải làm mọi cách để bảo vệ trẻ em khỏi bị xâm phạm. Chúng ta phải tỏ rõ việc không thể chấp nhận
những điều đó, và phải đối xử với các bậc cha mẹ phạm tội này đúng theo quy luật
xã hội hiện hành. Nhưng đồng thời chúng
ta cũng phải bảo vệ tâm khỏi sự sân hận và thất vọng bằng cách tự nhắc nhở rằng
chúng ta chỉ thấy một phân cảnh ngắn của một thiên trường kịch phức tạp, mà nhiều
thứ đều xa tầm mắt nhìn của ta. Quán chiếu
dựa trên chân lý này giúp nạn nhân của những việc bạo hành, xâm phạm có thể tìm
được phương cách để tha thứ cho những người có liên quan.
May thay, có rất ít các cha mẹ hoàn toàn nhẫn
tâm với con cái. Theo các kinh điển, phần
đông cha mẹ đều như các đấng Phạm Thiên đối với con cái, với tình thương yêu
không lay chuyển, với tâm từ bi và niềm hoan hỷ. Trong một số kinh, Đức Phật đã dạy chúng ta
làm thế nào để đáp trả tấm lòng trời biển của cha mẹ. Một trong những bài kinh nổi tiếng nhất là
bài Sáu Phương Hướng (The Six Directions), mà Đức Phật đã thuyết để dạy thanh
niên Sigalaka. Một đoạn kinh đó nói:
Này thanh niên
Sigalaka (Thi Ca La Việt), người con phải xem cha mẹ là ở về hướng Đông (tự nhủ
lòng), có năm việc phải làm:
- Đã được cha mẹ
chăm sóc, tôi phải chăm sóc lại họ
-Tôi sẽ giúp đỡ
cha mẹ trong công việc của họ
-Tôi sẽ gìn giữ
danh dự và truyền thống gia đình.
-Tôi phải cố gắng
để xứng đáng với gia tộc.
-Tôi sẽ dâng
cúng phẩm vật, hồi hướng công đức cho cha mẹ sau khi họ qua đời. (Trường Bộ Kinh III.189-192)
Giáo lý trong kinh này phản ảnh cấu trúc lý
tưởng trong một xã hội Phật giáo. Kinh
nhấn mạnh vào trách nhiệm của mọi người đối với nhau, vào bổn phận hơn là quyền
lợi. Thật ấm lòng khi biết ngày nay vẫn
có nhiều người ở Thái Lan cố gắng tu tập theo những lời dạy trên. Nhưng có một bản kinh khác mà tôi muốn nhắc đến
ở đây, dầu nó ít được biết đến và ít được thực hành theo hơn. Trong bản kinh đó đức Phật dạy rằng dầu cho
con cái có cõng cha mẹ trên hai vai, trong khoảng trăm năm, chu cấp cho họ cao
lương mỹ vị mà họ ưa thích, tắm rửa họ, để họ bài tiết trên vai mình, hay dâng
cho họ tài sản lớn, đem lại cho họ những vị trí cao sang, quyền lực –dầu con
cái đã làm tất cả những điều đó cho cha mẹ, cũng không thể trả đủ công ơn mà
cha mẹ đã làm cho con cái.
Tuy nhiên, nếu cha mẹ không có hoặc ít có
lòng tin vào Phật pháp, thì người con có thể khơi dậy lòng tin đó nơi cha mẹ,
hoặc nếu cha mẹ không biết tuân giữ giới hoặc trì giới không nghiêm mật mà người
con có thể giúp cha mẹ chuyển đổi, sống đạo đức: thí dụ người con có thể giúp
cha mẹ keo kiệt tìm được niềm vui trong việc bố thí, giúp đỡ người khác hay
giúp cha mẹ phát triển trí tuệ để chiến thắng tâm uế nhiễu, chấm dứt khổ đau,
thì người con đó đã hoàn thành được những nhiệm vụ được coi là thực sự trả được
công ơn mà người đó đã mang đối với cha mẹ.
Có rất nhiều điều cần bàn đến trong bài kinh
này. Trước hết, tôi nghĩ là đức Phật đã
chỉ ẩn dụ. Vì hãy thử hình dung làm sao
bạn có thể chăm bón cha mẹ khi họ ngồi trên vai bạn. Hơn nữa bạn sẽ không thể chịu nổi sức nặng của
họ trên vai trong năm phút, nói gì đến một trăm năm. Nhiều bà mẹ (như là mẹ tôi chẳng hạn) chắc chắn
sẽ không muốn trèo lên đó vì họ sợ té gãy tay, gãy chân. Đức Phật đã sử dụng những hình ảnh đó để ta
thấy rằng, dẫu ta có thể làm được những chuyện không thể tưởng tượng như thế
thì vẫn chưa đủ trả ơn cha mẹ, nói gì đến những điều ta đang làm cho họ hiện
nay. Ngài muốn cho chúng ta thấy rằng ơn
cha mẹ thật vô cùng to tát, cho nên dầu ta có chăm lo cho cha mẹ bao nhiêu bằng
những cung cách bình thường thì cũng vẫn không đủ, vẫn giống như chúng ta chỉ
trả phần lãi của món nợ. Khi chúng ta mắc
nợ, chủ nợ không quan tâm chúng ta đã trả được bao nhiêu nợ trong quá khứ,
nhưng là chúng ta còn phải trả họ bao nhiêu trong tương lai. Tương tự, khi nghĩ đến công ơn cha mẹ, thay
vì nhớ đến bao nhiêu điều chúng ta đã làm cho họ trong quá khứ, hãy nghĩ đến những
gì ta còn chưa làm cho họ, những gì ta còn nợ họ. Món nợ ta mang từ cha mẹ không phải là thứ nợ
bình thường, mà là một bổn phận thiêng liêng.
Đức Phật dạy chúng ta rằng ngoài những điều
ta cần làm cho cha mẹ như đã ghi trong kinh Sáu Hướng (The Six Directions), người
Phật tử còn cần phải sách tấn cha mẹ làm điều thiện. Người con cần phải cố gắng để làm một ‘bạn
lành’ (kalyanamitta) đối với cha mẹ.
Do đó, chúng ta có thể thấy rất rõ ràng ở
đây là, một xã hội Phật giáo là nơi mọi người cố gắng để trở thành bạn tốt của
nhau. Cha mẹ cần cố gắng làm bạn tốt đối
với con cái, và con cái cũng phải cố gắng làm bạn lành đối với cha mẹ mình.
Anh chị lớn cần cố gắng làm bạn tốt với các
em của mình, và ngược lại các em cũng cần làm thế với anh chị mình. Người chồng cần cố gắng làm thiện hữu tri thức
đối với vợ, và vợ cũng phải là bạn lành của chồng mình. Chúng ta cần giúp đỡ
nhau trong việc làm giảm bớt đi những tình cảm tiêu cực trong lòng và cùng nhau
tạo ra một đời sống, một xã hội dựa trên từ, bi và trí tuệ.
Trong bài kinh trên, đức Phật kê ra bốn đức
hạnh. Giờ tôi xin lặp lại và khai triển
thêm về ý nghĩa của chúng.
Saddha(Tín Tâm) là niềm tin rằng đức Phật là
một chúng sanh hoàn toàn giác ngộ, rằng giáo lý của Ngài là chân lý, và chúng sẽ
đem lại giải thoát cho những ai thực hành chúng nghiêm mật. Đó là niềm tin rằng có những người hành theo
lời Phật dạy một cách đầy đủ và nhờ đó được giải thoát. Đó là niềm tin rằng trong tất cả chúng sanh ở
cõi ta bà này, những chúng sanh cao thượng đã được giải thoát này là đáng được
coi trọng nhất. Đó là niềm tin rằng với
tư cách là một chúng sanh, chúng ta có quyền đối với nghiệp của chính mình: sự
việc có tốt hay xấu, chúng ta trải nghiệm khổ đau hay hạnh phúc, đều tùy thuộc
vào chúng ta. Cuộc sống của chúng ta
không tùy thuộc vào thần linh, ma quỷ, chư thiên, thượng đế hay quyền lực thần
bí nào, mà tùy thuộc vào chính thân, khẩu và ý của chúng ta –cả trong quá khứ
và quan trọng nhất, là trong hiện tại.
Saddha chính yếu có nghĩa là niềm tin vào khả năng giác ngộ của chúng
ta, và tin tưởng rằng việc quan trọng nhất trong cuộc đời của một chúng sanh là
giải thoát khỏi khổ đau và gốc khổ đau.
Sila (đạo hạnh hay giới luật) là nét đẹp, sự
thánh thiện trong hành vi. Nó là khả
năng kiềm chế lời nói hay hành động gây hại cho mình hay cho người. Sila là sự giải thoát khỏi nghiệp xấu gây ra
qua thân hay khẩu. Sila càng thêm vững bền
khi chúng được bảo vệ bởi cảm giác xấu hổ đầy ý thức đối với những hành động bất
thiện (hiri), và sự sợ hãi đầy ý thức về các nghiệp quả của những hành động như
thế (ottappa). Sila tạo ra các chuẩn mực
đạo đức cần thiết cho những ai quyết tiến xa trong Phật pháp.
Caga (Xả, rộng lượng) muốn nói đến sự xả ly
khỏi vật chất, hoan hỷ trong sự xả bỏ, từ bi, và giúp đỡ người khác. Người có tâm xả bỏ thường tử tế, quan tâm đến
người, chứ không keo kiệt hay tự mãn.
Panna (trí tuệ) là cái biết phân biệt được
khổ đau và những uế nhiễm tạo ra khổ đau.
Con người luôn phải đối mặt với khổ đau, dầu không ai muốn có chút đau
khổ nào. Chúng ta khổ vì chúng ta không
biết khổ phát khởi như thế nào và làm sao để dừng nó lại. Tại sao chúng ta không biết? Bởi vì chúng ta không hiểu bản thân mà chúng
ta cũng không cố gắng để hiểu hết sức mình.
Khi nào chúng ta còn không hiểu bản thân thì chúng ta sẽ luôn là nạn
nhân của cảm xúc. Điều đó giống như bạn ở
trong căn phòng tối với một con rắn độc.
Liệu ta có thể đi qua lại trong một căn phòng như thế mà không bị rắn cắn? Chỉ việc tránh đụng chạm bàn ghế đã là khó.
Ở giai đoạn bắt đầu, trí tuệ dựa trên tưởng. Nhờ sự vận hành của ký ức mà ta có thể tàng
trữ những điều mình đã được nghe, được đọc về Phật pháp. Chúng ta điều kiện hóa cảm xúc của mình –cả tốt
lẫn xấu- bằng tưởng và ý nghĩ. Những ai
từng lắng nghe Pháp và nhớ đến chúng, có thể quán tưởng về Pháp cho đến khi
thông đạt, rồi sau đó họ có thể thiết lập con đường của sự suy nghĩ chín chắn. Đã được huân tập bằng cách đó, khi tâm rơi
vào một trạng thái bất thiện, nó không hoàn toàn trở nên hoảng loạn, nó không
rơi vào hố sâu, nó có thể nhanh chóng tự điều chỉnh lại. Một người chưa hề biết đến Phật pháp, khi bị
đối xử bất công, thì người đó thường trở nên giận dữ, thất vọng. Nhưng với người đã biết Pháp, người đó có thể
suy nghĩ rằng ngay chính đức Phật còn bị lăng nhục, làm hại, thì làm sao ta có
thể tránh khỏi điều đó? Quán tưởng được
như thế sẽ giúp ta có thể chấp nhận hoàn cảnh.
Bằng phương cách hồi tưởng lại những suy nghĩ khôn ngoan, chúng ta có thể
bắt đầu buông bỏ các tình cảm tiêu cực, bắt đầu tách xa sự sa đà vào rượu và chất
gây ghiện. Giai đoạn có trí tuệ phân biệt
giữa tốt và xấu, giữa cái có ích và cái có hại.
Nó giúp chúng ta có một cái nhìn thực tế, bình tĩnh về cuộc đời và thế
giới. Nhưng nó cũng không phải là chốn
nương trú an toàn, nhất là khi ta phát khởi các cảm xúc mãnh liệt. Ở một mức độ cao hơn của panna là trí tuệ
mang đến kiến thức và sự hiểu biết trong tâm của những ai giữ được giới luật
thanh tịnh và định kiên cố (Samadhi). Ở
giai đoạn này, trí tuệ không còn là suy nghĩ.
Nó nhanh hơn suy nghĩ nhiều, nó giống như một chiếc siêu phản lực, bay
nhanh hơn cả âm thanh. Trí tuệ là thấy
được sự vật rõ ràng như chúng thực sự là, đến nỗi chúng ta không còn muốn bám
víu vào chúng như là tôi hay cái của tôi.
Đó là trí tuệ cuối cùng có thể khám phá được sự thật là tất cả mọi thứ,
kể cả tư tưởng, tình cảm của ta, đều thuộc vể thiên nhiên, không có ai là chủ
thể. Đó là trí tuệ nhận thức ra rằng cuộc
đời của chúng ta không phải là một thành lũy trên đất hoang hóa, mà là một dòng
sông chảy êm ả qua khu vườn đời. Khi
chúng ta phát triển trí tuệ để nhìn ra được điều ấy, chúng ta có thể buông xả. Đức Phật dạy rằng việc khơi dậy lòng tin,
hành vi đạo đức, tâm xả và trí tuệ trong lòng cha mẹ là cách phục vụ cha mẹ tốt
nhất, nhưng Ngài cũng không bỏ qua những cách phục vụ, chăm sóc cơ bản
hơn. Phật dạy rằng người con tốt phải biết
chăm sóc cha mẹ. Việc chăm sóc này có thể
bắt đầu bằng vật chất, nhưng đó không phải là tất cả. Tặng quà cáp hay tạo cho cha mẹ sự thoải mái
là biểu hiện của tình thương yêu, nhưng đó không phải là bằng chứng của tình
thương yêu, và ta không thể dùng chúng để thay thế cho tình thương yêu thực sự.
Cách hành xử của con cái đối với cha mẹ thay
đổi theo từng gia đình, vì điều đó tùy thuộc vào nhiều yếu tố; thí dụ như số
con cái trong gia đình, độ tuổi của con cái; con cái còn sống trong gia đình
hay đã ra riêng, ở gần hay ở xa cha mẹ, vân vân.
Khi cha
mẹ già yếu, người con có hiếu phải chăm sóc họ.
Nếu thực sự điều này không khả thi (chứ không phải là viện lý do), thì họ
phải thăm viếng cha mẹ thường xuyên, hay chí ít cũng phải gọi điện thoại hay viết
thư thăm hỏi cha mẹ đều đặn, cũng như thông tin cho cha mẹ biết cuộc sống của
mình thế nào. Biết rằng con cái vẫn tưởng
nhớ, quan tâm đến mình là liều thuốc có thể mang đến cho cha mẹ tâm bình an, liều
thuốc này còn hiệu lực hơn cả các loại thuốc do bác sĩ kê toa. Chúng ta phải giúp đỡ cha mẹ trong tất cả khả
năng của mình. Khi cha mẹ đau yếu, nếu
ta có thể giúp tiền chữa bệnh thì quá tốt, nhưng nếu ta nghèo, không thể làm điều
đó thì hãy mang đến cho cha mẹ những gì ta có –thí dụ như thời gian. Hãy ngồi bên họ, đọc cho họ nghe hay chăm sóc
họ theo cách tốt nhất mà chúng ta có thể làm (thí dụ tắm rửa, làm vệ sinh, đút
ăn hay bóp tay bóp chân cho họ) –những việc làm này đối với cha mẹ đôi khi còn
giá trị hơn tiền bạc hay bất cứ món quà vật chất nào mà ta dành tặng cho họ.
Bài kinh mà tôi dẫn ở trên cho ta thấy rằng
yếu tố lớn nhất để tạo ra hạnh phúc hay khổ đau trong cuộc đời chúng ta là tư
tưởng và cảm xúc hay nói cách khác chính là tâm chúng ta. Vì lý do đó đức Phật dạy rằng những ai có thể
giúp cha mẹ mình phát triển các đức tính thiện lành và trải nghiệm được các trạng
thái tâm hỷ lạc thì người đó được vô vàn công đức. Đó là cách trả ơn khiến cha mẹ chúng ta được
có món quà vô giá.
Chúng ta cảm thấy hạnh phúc khi mang đến cho
cha mẹ những món quà vật chất, hay đối xử đặc biệt với họ, thí dụ, dẫn họ đi ăn
tiệm hay đi chơi vào những ngày lễ, nhưng các loại quà tặng đó luôn có giới hạn. Đặc biệt là các thứ quà vật chất, chúng có thể
bể, tan hoại và còn có thể là nguyên nhân đưa đến sự bất ổn cho những người già
đến nỗi chúng có thể là con dao hai lưỡi.
Sự chăm sóc, lo lắng cho cha mẹ chỉ giúp họ ngay trong kiếp sống
này. Vì thế đức Phật dạy rằng bên cạnh
những cách bày tỏ tình thương yêu, lòng biết ơn đáng tán thán như vậy đối với
cha mẹ, chúng ta không nên coi nhẹ việc lo cho phần tâm linh của họ. Những hạnh lành phát xuất từ trong lòng cha mẹ
hoàn toàn không có mặt tiêu cực. Chúng
không dựa vào các điều kiện bên ngoài, không ai có thể tước đoạt chúng, và
chúng là tư lương cho kiếp sống tương lai.
Vì lý do đó, đức Phật gọi các đức tính bên trong ta là tài sản cao thượng,
là của cải quý báu. Chúng tối cao vì
chúng là phương tiện giúp ta đạt được sự cao thượng thực sự của việc được hoàn
toàn giải thoát khỏi khổ đau. Chúng ta cần
mang thật nhiều hạnh phúc và sự thoải mái đến cho người ân của mình, nhưng đồng
thời cũng đừng quên những thứ cao xa hơn thế.
Làm giảm những khổ đau mà cha mẹ ta phải gánh chịu khi lang thang trong
cõi luân hồi vẫn không bằng làm giảm thiểu các nhân gốc gây ra khổ đau đó.
Tóm lại, những quy tắc trong Phật giáo về vấn
đề làm thế nào để trả món nợ thâm tình mà chúng ta mang đối với cha mẹ tùy thuộc
vào những điều chúng ta tin. Thí dụ:
Luân hồi tái sinh là khổ, và được giải thoát
khỏi sinh tử mới là chân hạnh phúc.
Tái sinh là do ái nhiễm (kilesa)
Chúng
sanh có thể diệt trừ ái nhiễm, nên chúng ta phải làm được điều đó.
Buông bỏ uế nhiễm, vung trồng hạnh lành là
cách tu tập đưa đến chân hạnh phúc.
Vấn đề là: làm thế nào chúng ta có thể
khuyên cha mẹ vung trồng tín tâm, giới hạnh, từ bi và trí tuệ như lời Phật dạy? Chúng ta cần chuẩn bị tinh thần để đón nhận
thất bại. Có thể chúng ta không thực hiện
được tất cả, hay chỉ đạt được phần nào kết quả.
Con chúng ta, “những cành non” còn khó uốn, thì “cây già” làm thế nào dễ
được?[1] Vì thế đừng bực bội hay bức xúc
đối với cha mẹ, đừng bỏ rơi họ, nếu không tâm bạn sẽ u ám, đầy tiêu cực. Thường không ai muốn thay đổi. Vì thế hãy hành động, cư xử tế nhị, khôn
khéo, và đừng đặt quá nhiều kỳ vọng. Hãy
làm vì đó là bổn phận con cái phải làm, nhưng đừng để tâm chúng ta bất an khi
đang làm việc tốt.
Điều quan trọng là chúng ta phải làm gương
cho cha mẹ. Giống như câu, “Hành động
còn lớn tiếng hơn lời nói”, nên đôi khi cách tốt nhất để thuyết phục người khác
không phải bằng lời nói. Nếu chúng ta có
thể để cho cha mẹ thấy được những lợi ích mà chúng ta đạt được khi hành theo Phật
pháp; nếu họ có thể thấy trong ta những đức tính từ bi, trầm tĩnh, yêu thương,
kiên trì và chu đáo, thì họ có thể có được tín tâm và động lực để thực hành
theo. Tóm lại, nếu chúng ta muốn giúp đỡ
cha mẹ, thì đồng thời chúng ta cũng phải tự giúp mình.
Có lẽ điều dễ nhất
là giúp cha mẹ chúng ta vung trồng đức tính thứ ba: xả, vì điều này cũng được đề
cao trong xã hội Thái. Tôi không thể
nghĩ là có một đất nước nào trên thế giới mà người dân nơi đó lại hoan hỷ trong
việc bố thí hơn là ở Thái Lan này. Một
người con tốt sẽ mời cha mẹ cùng đi cúng dường, dâng tặng phẩm vật cùng với
mình đề thực sự làm lợi ích cho Phật pháp và cho xã hội nói chung. Chúng ta cần phải có trí tuệ trong việc lựa
chọn địa điểm và phẩm vật cúng dường hay bố thí. Thí dụ, nếu cúng dường cho tăng đoàn, ta cần
phải biết là kinh Luật cấm người tu sĩ được đòi hỏi người cư sĩ tại gia không
có liên hệ với mình, bất cứ điều gì, trừ
trường hợp người cư sĩ đó đã trang nghiêm thỉnh cầu (pavarana) vị tu sĩ làm thế. Bạn không nên cảm thấy áy náy, áp lực nếu người
tu sĩ muốn kêu gọi bạn cúng dường cho họ.
Làm thế là vị ấy đã phạm giới, nên ta không cần phải sợ gây ra ác nghiệp
nếu như ta không làm theo lời yêu cầu. Trái lại, bố thí, cúng dường trong trường hợp
này không được công đức gì vì ta đã hỗ trợ cho hành vi trái đạo và bôi nhọ tăng
đoàn của người tu sĩ. Hãy trao tặng, bố
thí phẩm vật phù hợp –giá trị của món đồ không tương ưng với công đức được tạo-
và trao tặng trong cung cách để bạn có thể cảm nhận được niềm vui trước, trong
khi và sau khi hành động. Ít có điều gì có thể làm cho sự gắn bó giữa các thành
viên trong gia đình tốt đẹp thêm bằng việc cùng nhau làm điều thiện như bố thí.
Thêm nữa, chúng ta cũng có thể làm gương cho
cha mẹ bằng cách sống giản dị, không tiêu xài phung phí và không mê đắm vật chất
quá mức. Nhắc nhở cha mẹ bằng cách đó
(chứ không phải bằng cách thuyết giảng cho họ), có thể khiến cho họ xét lại
thái độ của họ đối với vật chất. Chúng
ta có thể là tấm gương để cha mẹ soi lại bản thân và như thế là chúng ta đã biết
cách phụng sự cha mẹ, vì được giải thoát khỏi sự bám víu vào vật chất là một ý
nghĩa khác của thuật ngữ caga (xả). Có
những người cha khi nhìn thấy một chiếc xe xịn đời mới thì cũng háo hức như mấy
cậu choai choai, ngược lại cũng có những bà mẹ khi ngắm những chiếc áo thời
trang hiện đại, cũng xuýt xoa như các cô gái trẻ.
Do lòng ham muốn hưởng thụ vật chất cuồng
nhiệt, ngày nay không còn là chuyện lạ khi các vị trung niên có những hành động
mà các vị lão niên ngày xưa sẽ coi là thiếu chín chắn. Do đó chính là việc chúng ta biết khi nào để
dừng, biết đâu là đủ, có thể nhắc nhở cha mẹ chúng ta làm theo.
Mặt khác, cũng tùy theo cá tính của người
làm cha mẹ. Nếu cha mẹ là người thỉnh
thoảng cũng biết đến chùa, nghe Pháp, thì khá dễ cho chúng ta đàm luận những vấn
đề có ý nghĩa với họ khi có cơ hội.
Nhưng nếu họ không quan tâm đến Phật pháp; nếu họ vẫn còn đầy đủ sức khỏe
và chưa bao giờ nghĩ đến cái chết không thể tránh khỏi, thì họ có thể sẽ khó chấp
nhận. Những vị xem các phiền não của
mình như của quý, như một thứ gì đó thêm gia vị vào đời sống của họ, sẽ cảm thấy
Phật pháp như là can thiệp vào cuộc sống của họ, và họ sẽ cố gắng tránh né hay
chối bỏ nó. Trong trường hợp này, chúng
ta phải chấp nhận và tôn trọng quyền tự do của họ. Đừng cằn nhằn hay o ép họ. Phật pháp không phải là thứ mà bạn có thể đem
áp đặt lên người khác, dầu bạn muốn cho họ được lợi ích. Nếu cha mẹ ta có không chấp nhận Phật pháp,
chúng ta cũng phải cho qua trong lúc này, và lúc nào cũng sẳn lòng, cũng hoan hỷ
để chia sẻ với họ những gì ta có thể bất cứ khi nào, nếu như họ có đổi ý.
Riêng đối với những bậc cha mẹ có ý hướng muốn
tìm hiểu Phật pháp, chúng ta có thể đem họ đến chùa để họ tạo công đức, nghe
Pháp, và hành thiền trong không gian tĩnh lặng.
Nếu họ vẫn còn mê tín về bùa phép, bói toán, đồng bóng, phù thủy, vân
vân, thì nên trao đổi với họ khi có thể.
Tuy nhiên, bạn cần phải trao đổi đúng nơi, đúng lúc, đừng làm cho cha mẹ
cảm thấy là bạn hiểu biết hơn họ, là bạn khôn ngoan hơn họ. Hãy khuyến khích họ thường xuyên tập thể dục:
Khí công rất tốt vì nó cũng là một hình thức thiền tập. Hãy tìm cho họ những quyển sách hay về Phật
pháp để họ đọc, hay những băng đĩa về Phật pháp để họ nghe. Trao đổi với họ về sinh, già, bệnh và chết một
cách tự nhiên, để họ thấy đây không phải là những đề tài ta cần tránh né khi
trò chuyện. Tín tâm và trí tuệ phát khởi
từ sự can đảm đối mặt với những sự thật trong cuộc sống. Không phải là ta có thể trốn tránh những sự
thật này chỉ bằng cách phớt lờ chúng.
Điều quan trọng cần phải nhớ là đức Phật
không dạy rằng một người con tốt là phải làm tất cả những gì cha mẹ bảo hay yêu
cầu ta làm. Từ chối không làm như cha mẹ
muốn không phải lúc nào cũng sai. Vì
sao? Vì có những cha mẹ bảo hay bắt con
cái phải làm những điều không hợp đạo lý.
Nếu cha mẹ bảo chúng ta làm những việc phạm pháp hay tạo các ác nghiệp
như uống rượu, cờ bạc, thì không có gì sai, nếu ta trái ý họ. Chúng ta không chỉ có bổn phận báo ơn đối với
cha mẹ. Chúng ta còn là con của Phật, và
lòng từ bi của Ngài đối với chúng sanh còn lớn hơn các bậc cha mẹ. Do đó bổn phận báo đáp của chúng ta đối với
Ngài còn phải to lớn hơn. Vì vậy nếu những
nỗ lực để bày tỏ lòng biết ơn của chúng ta đối với cha mẹ trái ngược lại với
nguyện ước được làm việc thiện và sống chân thật, thì người trí, với sự cẩn trọng,
từ tốn nhất, nên đem những gì đúng, thiện lành làm kim chỉ nam cho mình. Làm người con hiếu thảo đối với cha mẹ không
có nghĩa là bằng mọi giá phải làm theo ý họ.
Tuy nhiên, chúng ta phải có những quy tắc rõ ràng, đúng đắn và phải cố gắng
trung thực, không được tỏ ra vô cảm, cứng nhắc.
Nếu có thì giờ vào buổi sáng hay chiều, hãy
mời cha mẹ cùng tụng kinh hay hành thiền với bạn. Sự bình an, tĩnh lặng mà ta có thể trải nghiệm
qua thiền tập mang đến cho ta hạnh phúc, sức mạnh và sự sáng suốt tuyệt vời. Người có tâm bình lặng thường được sống lâu
vi sức mạnh của tâm bình ổn có thể chế ngự sự buồn phiền, ưu tư và lo lắng làm
suy yếu hệ thống miễn nhiễm của chúng ta.
Nếu cha mẹ chúng ta biết tập hành thiền cho đến khi trở thành nhuần nhuyễn,
thì họ sẽ có được chốn nương tựa nội tại vững chải khi họ bệnh hoạn.
Công phu thiền tập của chúng ta chỉ có hiệu
quả khi nó được phát triển cùng với nỗ lực kiềm chế lời nói và hành động. Một phương cách dễ dàng để giúp cha mẹ giảm
thiểu các uế nhiễm của họ là đừng đắm chìm vào những câu chuyện bất thiện với họ. Thí dụ, nếu cha mẹ ta bắt đầu nói dèm pha hay
nói xấu ai đó thì chúng ta chỉ cần giữ im lặng.
Nếu chúng ta không góp chuyện hay hùa theo, thì họ sẽ sớm nản lòng với
những chuyện đó và có thể sẽ có được chút ít tỉnh giác.
Con cái khi còn sống trong gia đình phải giữ
thái độ trung dung, không bênh vực bên nào khi thỉnh thoảng giữa cha mẹ có xảy
ra sự cãi vả. Trong lúc căng thẳng, cả
hai cha mẹ thường cố gắng kéo con cái về phía mình. Người con biết đạo sẽ không để tình huống này
xảy ra, mà cố gắng làm người hòa giải công bằng. Chúng ta lúc đó phải cố gắng xoa dịu người
đang giận dữ, và cần cẩn thận để không nói hay làm điều gì khiến tình thế thêm
phức tạp. Chúng ta cần cố gắng giúp cha
mẹ hóa giải những sự khác biệt, dằn co giữa họ mà không để cho bên nào cảm thấy
là mình thắng cuộc hay thua cuộc. Chúng
ta cần kiên nhẫn lắng nghe cha mẹ càu nhàu, than vãn. Lắng nghe cha mẹ, giảng hòa khi họ tranh cãi,
khuyến khích họ nói lời chánh ngữ: đây cũng là những cách mà chúng ta có thể
dùng để trả công ơn mà ta đã nợ cha mẹ.
Nếu chúng ta có thể làm bạn lành đối với cha
mẹ trong một thời gian dài, thì họ sẽ bắt đầu tin cậy, nể trọng ta ngày càng
nhiều hơn. Ảnh hưởng của chúng ta đối với
họ và cơ hội để hướng dẫn họ hành thiện sẽ ngày càng tăng trưởng. Nhưng việc này cần có thời gian, chúng ta
không nên vội vã. Chúng ta cũng cần ghi
nhận là bản thân mình đã được lợi ích như thế nào từ những nỗ lực trên vì ta cần
rất nhiều nhẫn nại để đối xử với người lớn tuổi đúng cách. Vì lớn tuổi, người ta thường trở nên khó chịu,
hay quên và hay cằn nhằm. Chúng ta dễ bực
mình vì những điều này khi ở bên họ, vì thế chúng ta cũng cần có chánh niệm để
duy trì nội tâm bình ổn. Do đó, bằng
cách giúp đỡ cha mẹ, chính là ta cũng tự giúp bản thân.
Thật ra sống trên thế giới này là ta đã nhận
rất nhiều ân sủng. Chúng ta có trồng thực
phẩm mà mình dùng hôm nay không? Do đâu
mà chúng có? Chúng ta có tự may bộ quần
áo mình đang mặc không? Vải vóc từ đâu
mà ra? Chỉ một mảnh vải sợi cũng cần phải
có người trồng vải sợi, người hái trái vải, người dệt vải, thợ may, người thiết
kế, người chế tạo ra máy dệt và máy may.
Nếu ta sử dụng điện thoại, xem truyền hình hay ngồi trong xe hơi, là
chúng ta đã dựa vào trí thông minh, tính cần cù của bao nhiêu người trong bao
nhiêu xứ sở? Biết trân trọng nguồn gốc của
những gì mình sở hữu có thể giúp tâm ta lắng đọng và giúp ta cảm nhận về mối
liên chằn chịt giữa con người trên thế giới này với nhau, mà mắt thường sẽ
không nhìn thấy được.
Chúng ta không chỉ phải hàm ân người đồng loại
mà cũng phải mang ơn cả những sinh vật khác.
Thí dụ, nếu không có sâu bọ ăn đất, chúng ta sẽ không thể trồng trọt, mà
không có canh nông thì con người cũng không thể tồn tại. Vì thế chúng ta cũng mắc nợ sâu bọ. Rồi đến những con trâu nước, bò, và nhiều giống
thú nuôi khác. Có bao giờ chúng ta cảm
thấy hàm ân chúng không?
Thật ra, tôi còn nghĩ là nếu con người biến
mất khỏi mặt đất, chắc là tất cả các sinh vật khác sẽ tụ hội lại mà reo hò đến
khản tiếng. Con người quả thật rất vô
ân: chúng ta tàn phá thiên nhiên, làm hao mòn tài nguyên thiên nhiên, và gần
như biến trái đất thành nơi không thể sống –tất cả chỉ vì lợi ích cá nhân. Đằng sau những hành động đó là ảo tưởng rằng
chúng ta là chủ trái đất này, nên không
có trách nhiệm gì đối với các sinh vật và cây cối đang cùng sống trên đó. Là người Phật tử, chúng ta cần phải có trí tuệ
hơn thế, vậy mà phần đông cũng hấp thụ một cách vô thức theo phương Tây cách
nhìn cuộc đời điên rồ như thế. Kết quả
là chúng ta sống vô cảm. Trong tương lai
chúng ta và con cháu chúng ta sẽ phải hứng chịu hậu quả từ những nghiệp do ta tạo
ra ngày hôm nay, vậy chúng ta còn trách được ai ngoài bản thân? Giờ cũng không quá trể để sửa chữa vấn đề,
nhưng chúng ta cần phải thay đổi thái độ để có thể nhận thức sâu rộng về sự tử
tế và ân sủng mà trái đất này ban tặng cho ta.
Chúng ta cần hợp tác, cần đoàn kết để làm giảm thiểu sức mạnh của tánh
ích kỷ của con người. Và chúng ta có thể
bắt đầu điều đó trong chính gia đình của mình.
Đức Phật dạy rằng thật khó để tìm được ai
không từng là cha, mẹ, anh, chị, em của chúng ta trong những kiếp sống trước. Do đó, khi quán chiếu về công ơn ta mang đối
với cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình, thì hãy nhớ đến lời dạy
này. Hãy nỗ lực thêm để bày tỏ lòng biết
ơn đối với tất cả nhân loại. Hãy huân tập
để làm bạn lành đối với tất cả những ai ở quanh ta và trên trái đất ta đang sống.
Cuối cùng, xin nguyện cho tất cả được sống
làm người bạn lành. Hãy là bạn lành đối
với bản thân bằng cách chỉ hành động, nói năng và suy nghĩ những điều tốt lành
cho bản thân và cho người. Hãy là bạn
lành đối với những người đã giúp bạn, nhất là cha mẹ mình. Hãy mang đến cho họ những gì bạn có thể, hãy
giúp họ sao cho xứng đáng với những gì họ đã giúp bạn. Quan trọng nhất là, với sự gia hộ của Tam Bảo,
mong rằng các bậc cha mẹ và tất cả chúng ta luôn được tăng trưởng, được sung
túc trong các hạnh lành của tín tâm, giữ giới, bố thí và trí tuệ.
Diệu Liên Lý Thu
Linh
(chuyển ngữ theo
sách Daughters & Sons, với sự đồng ý của ngài Ajahn Jayasaro, thông qua
Monastery Secretary Amaravati, ngày 25.8.2014).
Ajahn_JayasaroTỳ
Kheo Jayasaro (thế danh: Shaun Chiverton) sinh năm 1958, tại Anh Quốc. Năm 1978, ông tham dự khóa thiền tích cực với
Sư Sumedho, trải qua một mùa an cư tại đó (Thiền Viện Amaravati, Anh quốc).
Năm 1979, thọ giới
sa di tại thiền viện Nong Pah Pong, bang Ubon Rajathani, Thái Lan.
Năm 1980: thọ giới
tỳ kheo tại Nong Pah Pong với vị Thiền sư trưởng lão nổi tiếng, ngài Ajahn
Chah, là sư tế độ.
Từ năm 1997-2001:
trụ trì chùa Pah Nanachat (Lâm Tự Viện Quốc Tế), bang Ubon Rajathani, Thái Lan.
Nhiều năm trước
khi xuất gia, tôi đã tin rằng kinh nghiệm mang đến trí tuệ. Vì thế tôi rời bỏ quê hương Anh quốc để đi Ấn
Độ, lang thang đó đây để thu thập kinh nghiệm sống ở châu Âu và châu Á. Cuộc hành trình càng khó khăn, tôi càng thích
thú vì tôi cảm thấy những gian nan đó giúp tôi hiểu về bản thân hơn và chúng sẽ
đem lại lợi ích cho cuộc đời tôi.
Nhưng cuộc hành trình đến Ấn Độ khiến tôi
khá thất vọng. Nó chẳng có nhiều thử
thách như tôi mong đợi, nên trên đường quay trở về, tôi quyết định đi từ
Pakistan về Anh quốc trong khi túi không có đồng xu. Tôi muốn thử xem tôi có thể đi xe nhờ suốt chặng
đường về đó không, và tôi cũng muốn thử xem cảm giác sẽ thế nào khi không sở hữu
gì cả.
Thật là một cuộc mạo hiểm, có nhiều chuyện
tôi sẽ không bao giờ quên. Tôi muốn kể
cho bạn nghe một trong những chuyện đó.
Lúc tôi đến được Tehran –thủ đô của Iran –tôi hoàn toàn kiệt quệ. Tôi ốm như cây sậy, quần áo thì bẩn thỉu,
nhàu nát, chắc tôi trông ghê tởm lắm.
Chính tôi cũng bị sốc khi soi mình qua tấm gương ở một nhà vệ sinh công
cộng. Còn tâm tôi thì càng ngày càng giống
quỷ đói, nó luôn lo lắng về cái ăn: “Liệu hôm nay ta có được gì để ăn hay
không?” Bụng tôi được no hay bị đói tùy
vào lòng tử tế của đồng loại. Tôi phải dựa
vào parami (Ba-la-mật) của mình vì không có gì khác để dựa vào.
Cuối cùng cũng có một người Iran cảm thấy
thương hại tôi, đồng thời anh ta cũng coi đây là cơ hội để thực tập tiếng
Anh. Anh ta đãi tôi uống trà và cho tôi
một ít tiền. Ban đêm, tôi ngủ ngoài đường,
giấu mình trong những con hẻm nhỏ, vắng vẻ.
Tôi sợ cảnh sát sẽ đánh đuổi nếu họ bắt gặp tôi. Buổi sáng, tôi đến một quán súp mà tôi nhớ là
họ cho ăn bánh mì miễn phí. Khi đi dọc
theo đường phố, cố gắng không liếc nhìn vào các quán ăn hấp dẫn và không ngửi
theo những mùi đồ ăn ngào ngạt trong không khí, tôi phát hiện một phụ nữ đang
tiến bước về phía tôi. Bà có vẻ kinh
hoàng khi nhìn thấy tôi. Bà dừng bước lại,
trố mắt nhìn tôi một lúc, rồi bước đến chắn phía trước với vẻ mặt cau có. Bà ra dấu bảo tôi đi theo bà, với kinh nghiệm
của kẻ xin ăn, tôi làm theo ngay. Đi bộ
khoảng mười phút, chúng tôi đến một khu chung cư, rồi lên thang máy đến tầng thứ
tư. Tôi đoán là lên phòng bà, nhưng bà vẫn
chưa nói tiếng nào. Không có nụ cười
thân thiện nào, chỉ có vẻ mặt đầy sát khí.
Khi mở cửa ra, tôi thấy đúng là phòng
bà. Bà dẫn tôi vào nhà bếp, chỉ vào một
chiếc ghế, ra hiệu cho tôi ngồi xuống.
Sau đó bà mang ra cho tôi đủ loại thực phẩm. Tôi tưởng chừng mình đang ở thiên đàng. Tôi bỗng nhận ra rằng món ngon nhất trên đời
là món bạn được ăn khi thực sự đói khát, bao tử réo gọi từng hồi. Người phụ nữ gọi con trai ra, nói gì đó với cậu
mà tôi không hiểu, nhưng tôi thấy cậu khoảng tuổi tôi. Sau một lúc, cậu con trai trở lại với một bộ
quần áo. Khi thấy tôi đã ăn xong, người
phụ nữ chỉ về hướng nhà tắm, ra hiệu cho tôi đi tắm và thay bộ đồ mới. (Tôi đoán có lẽ bà định đốt bộ đồ cũ của
tôi). Bà không nói gì, chẳng hề cười, chỉ
ra dấu cho tôi hiểu bà. Trong lúc tắm,
tôi nghĩ có lẽ người phụ nữ nhìn tôi mà chạnh nghĩ đến con bà: “Sẽ ra sao nếu
con ta đi đến một xứ sở xa lạ và bị khốn khổ như thế?” “Nếu như con ta cũng lâm vào hoàn cảnh đáng
thương như thế, thì sẽ như thế nào?” Tôi
nghĩ là bà đã giúp đỡ tôi với tình thương của một người mẹ. Tôi quyết định tặng cho bà danh hiệu ‘Người Mẹ
Ba-tư đáng kính’ và tự mỉm cười một mình trong buồng tắm. Khi tôi đã xong xuôi mọi thứ, người phụ nữ dẫn
tôi về chỗ cũ, và bỏ tôi ở đó. Rồi bà hòa vào dòng người đang trên đường đến chỗ
làm. Tôi đứng đó nhìn bà lẫn vào đám
đông, và tận đáy lòng tôi biết rằng mình sẽ suốt đời không bao giờ quên ơn
bà. Tôi rất cảm động, mắt tôi đẫm lệ. Bà đã cho tôi quá nhiều dầu chúng tôi là hai
người hoàn toàn xa lạ. Lúc đó tôi ốm như
một xác chết khô, quần áo thì bẩn thỉu, hôi hám, tóc tai dài thượt, bù xù. Nhưng người phụ nữ ấy không hề quan tâm, bà
còn dẫn tôi về nhà và chăm sóc cho tôi như thể tôi là con bà, mà không hề mong
đợi bất cứ sự đền đáp nào –dầu chỉ là một lời cảm ơn. Đã hơn hai mươi năm qua, giờ tôi muốn nói cho
mọi người biết về vị bồ tát có nét mặt quạu quọ này, để mọi người biết rằng dầu
trong các thành phố lớn, cũng có những người tốt, và người tốt có thể còn nhiều
hơn chúng ta nghĩ.
Người phụ nữ đó không phải là người tốt bụng
duy nhất mà tôi đã được gặp. Tôi đã nhận
được sự tử tế và giúp đỡ của nhiều người ở những quốc gia mà tôi đã đặt chân tới
trên bước đường tìm kiếm kinh nghiệm sống, dầu tôi không hỏi xin họ bất cứ điều
gì. Điều đó khiến tôi quyết tâm là trong
tương lai nếu tôi ở vào hoàn cảnh có thể giúp đỡ người khác giống như thế, tôi
sẽ làm. Tôi muốn giúp đỡ để duy trì lòng
tử tế của con người trên thế giới. Xã hội
đôi khi có vẻ như là một nơi không có tình người, quá lạnh lùng, nhẫn tâm,
nhưng tôi nghĩ là mỗi người chúng ta ít nhất có thể cố gắng làm một ốc đảo nhỏ
trên sa mạc.
Tôi đã không về được tận Anh quốc. Tôi đánh mất hộ chiếu gần biên giới Thổ Nhĩ Kỳ,
nên phải quay về Tehran. Ở đó tôi làm
quen được với một số người và kiếm được công việc dạy tiếng Anh. Sau vài tháng, với ít tiền dính túi, tôi quay
trở về Ấn Độ. Ngày sinh nhật mười chín
tuổi tôi trải qua bên bờ hồ với một đạo sĩ Ấn Độ. Ông là một vị thầy tâm linh với cách tu hành
tương tự như của Phật giáo và ông đã dạy tôi rất nhiều điều. Khi sống cạnh ông, tôi có rất nhiều thì giờ để
quán chiếu về cuộc đời mình. Những buổi
chiều tôi thích leo lên ngọn núi gần đó, ngồi dưới một cây cổ thụ, tận hưởng
làn gió mát. Nhìn xuống dòng suối bên dưới
và bãi sa mạc trải dài đến tận chân trời giúp tôi suy nghĩ thấu đáo. Một ngày kia tâm tôi tràn đầy các câu hỏi. Tại sao tôi luôn xúc động mỗi khi nhớ đến sự
tử tế của những người đã giúp đỡ tôi trong suốt cuộc hành trình của mình, những
người đã cho tôi ăn hay ngủ một hay hai đêm- nhưng tôi chưa bao giờ cảm thấy
như thế đối với sự tử tế của cha mẹ tôi.
Họ đã chăm sóc cho tôi suốt mười tám năm, cho tôi ăn từng ngày –ba hay bốn
lần một ngày- vậy mà họ vẫn lo rằng thức ăn không đủ ngon cho tôi. Họ đã cho tôi quần áo, chỗ trú ngụ. Khi tôi ấm đầu xổ mũi, họ đem tôi đi bác sĩ,
còn khi tôi bệnh nặng dường như họ còn khổ hơn tôi. Vậy tại sao tôi chẳng bao giờ xúc động với những
việc như thế? Bỗng nhiên tôi cảm thấy
mình bất công một cách đáng xấu hổ. Tôi
nhận ra rằng tôi đã coi thường sự hy sinh của cha mẹ biết bao nhiêu. Lúc đó, dường như có một bờ đê vừa vụt vỡ
tung. Nhiều tấm gương về lòng biết ơn
(boon khoon) của cha mẹ tôi, lòng độ lượng, tử tế của họ tràn đầy tâm trí tôi,
quá ấn tưọng, quá bao la. Đó là khởi đầu
cho lòng biết ơn của tôi đối với cha mẹ.
Tôi tiếp tục quán tưởng đến việc mẹ tôi hẳn
đã phải chịu bao khó nhọc khi mang thai tôi.
Lúc đầu chắc bà đã bị hành buồn nôn mỗi sáng, thời gian sau thì đi đứng
trở nên khó khăn. Mọi chuyển động đều
đau đớn và không thuận lợi. Nhưng mẹ tôi
đã chấp nhận cái khổ này vì bà tin rằng có điều gì đó rất đáng công, và điều gì
đó chính là tôi.
Khi còn nhỏ, việc gì tôi cũng phải nhờ đến
cha mẹ, vậy mà không hiểu sao tôi coi chuyện đó là bình thường –phải đâu bổn phận
của họ là phải cung cấp, cưu mang, còn tôi chỉ có quyền nhận? Sau cùng, tôi nhận thức được rằng tôi có
duyên được tu tập theo Phật giáo để phát triển một nơi nương tựa thực sự ở bên
trong, là nhờ cha mẹ đã tạo cho tôi một chỗ nương tựa bền vững, đáng tin cậy ở
bên ngoài khi tôi còn trẻ. Họ đã thiết lập
cho tôi một nền tảng vững chắc để tôi có thể toàn tâm toàn trí tu tập, chiến đấu
với uế nhiễm.
Năm 20 tuổi, tôi đến Thái Lan để thọ giới xuất
gia. Cha mẹ tôi không phản đối vì họ muốn
cho con trai có thể sống theo ý nó muốn và được hạnh phúc. Cha mẹ tôi đã chọn điều đó thay cho những kỳ
vọng họ đã đặt vào tôi. Năm ngoái, mẹ
tôi đã thú nhận rằng ngày tôi ra đi là ngày buồn nhất trong đời của mẹ. Nghe vậy tôi rất xúc động. Điều gây ấn tượng ở tôi là mẹ đã rất chịu đựng
và che giấu nỗi khổ đau này suốt hai mươi năm vì mẹ không muốn tôi phải bức rức
vì chuyện này.
Sau khi đã trở thành tu sĩ, đôi khi tôi
không thể không tự trách mình. Khi còn sống
bên cạnh mẹ cha, mỗi ngày tôi đều có cơ hội để làm điều gì đó, hầu đáp lại chút
tình thương mà họ đã dành cho tôi, nhưng tôi hầu như chẳng làm gì cả. Giờ tôi ước muốn bày tỏ lòng biết ơn bằng
trăm ngàn cách thì lại không thể vì tôi đã là tu sĩ và sống cách xa họ hàng
ngàn dặm. Thật tệ hại. Tôi chỉ còn có thể làm những gì mà các vị tu
sĩ vẫn làm hơn hai ngàn năm nay, là rải tâm từ đến cho họ mỗi ngày.
Ở Thái Lan chúng tôi thường nghĩ tưởng đến
‘boon khoon’ (công ơn) cha mẹ. Boon
Khoon là niềm tin rằng mỗi khi ta nhận được sự giúp đỡ, lòng tử tế của ai đó –nhất
là khi được ban tặng- là chúng ta đã mang một cái ơn. Thiện nhân là người biết trọng ơn nghĩa, và
ơn nghĩa sâu dày nhất trong tất cả mọi ơn nghĩa là ơn nghĩa đối với cha mẹ. Đức Phật đã dạy chúng ta phát triển lòng biết
ơn sâu sắc đến với cha mẹ, và ý hướng đáp trả ơn cha mẹ bằng những phương cách
tốt nhất mà chúng ta có thể thực hiện.
Lúc nhỏ, tôi đã không được dạy dỗ về các giá
trị này. Dĩ nhiên, trong nền văn hóa
phương Tây cũng có tình thương yêu, gắn bó giữa cha mẹ và con cái, nhưng nói
chung sự quan tâm, lòng biết ơn lẫn nhau thường ít được coi trọng. Trong khi các giá trị khác như là sự tự do cá
nhân, tính tự lập thì lại được chú trọng hơn.
Tình cảm thâm sâu, gắn bó giữa cha mẹ và con cái có thể cũng được nhiều
người cảm nhận, nhưng nó không được truyền thông rộng rải như một đạo lý chung
trong xã hội như trong văn hóa Phật giáo, thí dụ như ở Thái Lan.
Việc chúng ta phải coi trọng công ơn cha mẹ
có thể được tìm thấy trong giáo lý của Đức Phật về Chánh kiến trong đời sống thế
tục, nền tảng giúp ta hiểu điều này điều nọ trong cuộc sống. Trong kinh điển Pali, Đức Phật dạy rằng ta phải
tin rằng cha ta là thật, mẹ ta là thật.
Có thể bạn sẽ bỡ ngỡ khi đọc điều này phải không? Tại sao Đức Phật phải dạy chúng ta một điều
quá hiển nhiên? Có ai không biết rằng
mình được sinh ra trong cõi đời này là vì cha mẹ mình thực sự có?
Chúng ta cần phải hiểu rằng những lời dạy đó
chỉ là ẩn dụ thôi. Điều Đức Phật muốn dạy
là chúng ta cần phải biết rằng có một ý nghĩa đặc biệt trong quan hệ giữa cha mẹ
và con cái, một ý nghĩa mà ta phải chấp nhận và tôn trọng. Mối liên hệ giữa cha mẹ và con cái thật sâu sắc
và huyền bí. Đức Phật dạy rằng không có
nghiệp báo nào nặng hơn hành động giết cha hay mẹ. Trong từ ngữ Pali đó là anantariya kamma
–nghiệp này nặng nề đến nỗi người gây nghiệp không thể nào tránh khỏi những hậu
quả gớm ghê, dầu người đó có thật tâm hối hận đến mức độ nào. Như thế khi Angulimala có thể trở thành một vị
A-la-hán dầu đã giết 999 người, thì điều đó sẽ không thể xảy ra nếu ông giết chỉ
một người, mà người đó là cha hay mẹ ông.
Đức Phật không dạy về mối liên hệ thâm sâu
này như là một phương tiện thiện xảo để quảng bá các giá trị trong đời sống gia
đình. Nhưng đó là một chân lý vượt thời
gian mà Ngài đã khám phá ra và sau đó truyền dạy lại vì lợi ích của chúng
sanh. Giáo lý quan trọng đó dạy rằng mối
liên hệ giữa cha mẹ và con cái rất sâu dày và có thể đã diễn ra qua nhiều kiếp
sống. Do đó, chúng ta phải chấp nhận,
tôn trọng, và gìn giữ mối liên hệ đó.
Tóm lại, có thể nói rằng chúng ta được sinh
ra trong kiếp này là để tiếp tục ‘công việc còn dang dở’ đối với mẹ cha. Có khi công việc còn dang dở này được thể hiện
ra một cách không tốt đẹp, như khi đứa bé bị cha mẹ bỏ rơi, hay bị cha mẹ bạo
hành thân xác hay tâm hồn. Có những hoàn
cảnh như thế, và dường như ngày càng nhiều hơn.
Nhưng những điều tệ hại mà cha mẹ có thể mang đến cho con cái như thế
cũng không xóa bỏ được mối liên hệ thâm sâu này. Kiếp sống này chỉ như là một cảnh trong một
trường kịch, chúng ta không biết điều gì đã xảy ra trong những kiếp quá khứ. Sống trong một xã hội nhân ái, dĩ nhiên chúng
ta phải làm mọi cách để bảo vệ trẻ em khỏi bị xâm phạm. Chúng ta phải tỏ rõ việc không thể chấp nhận
những điều đó, và phải đối xử với các bậc cha mẹ phạm tội này đúng theo quy luật
xã hội hiện hành. Nhưng đồng thời chúng
ta cũng phải bảo vệ tâm khỏi sự sân hận và thất vọng bằng cách tự nhắc nhở rằng
chúng ta chỉ thấy một phân cảnh ngắn của một thiên trường kịch phức tạp, mà nhiều
thứ đều xa tầm mắt nhìn của ta. Quán chiếu
dựa trên chân lý này giúp nạn nhân của những việc bạo hành, xâm phạm có thể tìm
được phương cách để tha thứ cho những người có liên quan.
May thay, có rất ít các cha mẹ hoàn toàn nhẫn
tâm với con cái. Theo các kinh điển, phần
đông cha mẹ đều như các đấng Phạm Thiên đối với con cái, với tình thương yêu
không lay chuyển, với tâm từ bi và niềm hoan hỷ. Trong một số kinh, Đức Phật đã dạy chúng ta
làm thế nào để đáp trả tấm lòng trời biển của cha mẹ. Một trong những bài kinh nổi tiếng nhất là
bài Sáu Phương Hướng (The Six Directions), mà Đức Phật đã thuyết để dạy thanh
niên Sigalaka. Một đoạn kinh đó nói:
Này thanh niên
Sigalaka (Thi Ca La Việt), người con phải xem cha mẹ là ở về hướng Đông (tự nhủ
lòng), có năm việc phải làm:
- Đã được cha mẹ
chăm sóc, tôi phải chăm sóc lại họ
-Tôi sẽ giúp đỡ
cha mẹ trong công việc của họ
-Tôi sẽ gìn giữ
danh dự và truyền thống gia đình.
-Tôi phải cố gắng
để xứng đáng với gia tộc.
-Tôi sẽ dâng
cúng phẩm vật, hồi hướng công đức cho cha mẹ sau khi họ qua đời. (Trường Bộ Kinh III.189-192)
Giáo lý trong kinh này phản ảnh cấu trúc lý
tưởng trong một xã hội Phật giáo. Kinh
nhấn mạnh vào trách nhiệm của mọi người đối với nhau, vào bổn phận hơn là quyền
lợi. Thật ấm lòng khi biết ngày nay vẫn
có nhiều người ở Thái Lan cố gắng tu tập theo những lời dạy trên. Nhưng có một bản kinh khác mà tôi muốn nhắc đến
ở đây, dầu nó ít được biết đến và ít được thực hành theo hơn. Trong bản kinh đó đức Phật dạy rằng dầu cho
con cái có cõng cha mẹ trên hai vai, trong khoảng trăm năm, chu cấp cho họ cao
lương mỹ vị mà họ ưa thích, tắm rửa họ, để họ bài tiết trên vai mình, hay dâng
cho họ tài sản lớn, đem lại cho họ những vị trí cao sang, quyền lực –dầu con
cái đã làm tất cả những điều đó cho cha mẹ, cũng không thể trả đủ công ơn mà
cha mẹ đã làm cho con cái.
Tuy nhiên, nếu cha mẹ không có hoặc ít có
lòng tin vào Phật pháp, thì người con có thể khơi dậy lòng tin đó nơi cha mẹ,
hoặc nếu cha mẹ không biết tuân giữ giới hoặc trì giới không nghiêm mật mà người
con có thể giúp cha mẹ chuyển đổi, sống đạo đức: thí dụ người con có thể giúp
cha mẹ keo kiệt tìm được niềm vui trong việc bố thí, giúp đỡ người khác hay
giúp cha mẹ phát triển trí tuệ để chiến thắng tâm uế nhiễu, chấm dứt khổ đau,
thì người con đó đã hoàn thành được những nhiệm vụ được coi là thực sự trả được
công ơn mà người đó đã mang đối với cha mẹ.
Có rất nhiều điều cần bàn đến trong bài kinh
này. Trước hết, tôi nghĩ là đức Phật đã
chỉ ẩn dụ. Vì hãy thử hình dung làm sao
bạn có thể chăm bón cha mẹ khi họ ngồi trên vai bạn. Hơn nữa bạn sẽ không thể chịu nổi sức nặng của
họ trên vai trong năm phút, nói gì đến một trăm năm. Nhiều bà mẹ (như là mẹ tôi chẳng hạn) chắc chắn
sẽ không muốn trèo lên đó vì họ sợ té gãy tay, gãy chân. Đức Phật đã sử dụng những hình ảnh đó để ta
thấy rằng, dẫu ta có thể làm được những chuyện không thể tưởng tượng như thế
thì vẫn chưa đủ trả ơn cha mẹ, nói gì đến những điều ta đang làm cho họ hiện
nay. Ngài muốn cho chúng ta thấy rằng ơn
cha mẹ thật vô cùng to tát, cho nên dầu ta có chăm lo cho cha mẹ bao nhiêu bằng
những cung cách bình thường thì cũng vẫn không đủ, vẫn giống như chúng ta chỉ
trả phần lãi của món nợ. Khi chúng ta mắc
nợ, chủ nợ không quan tâm chúng ta đã trả được bao nhiêu nợ trong quá khứ,
nhưng là chúng ta còn phải trả họ bao nhiêu trong tương lai. Tương tự, khi nghĩ đến công ơn cha mẹ, thay
vì nhớ đến bao nhiêu điều chúng ta đã làm cho họ trong quá khứ, hãy nghĩ đến những
gì ta còn chưa làm cho họ, những gì ta còn nợ họ. Món nợ ta mang từ cha mẹ không phải là thứ nợ
bình thường, mà là một bổn phận thiêng liêng.
Đức Phật dạy chúng ta rằng ngoài những điều
ta cần làm cho cha mẹ như đã ghi trong kinh Sáu Hướng (The Six Directions), người
Phật tử còn cần phải sách tấn cha mẹ làm điều thiện. Người con cần phải cố gắng để làm một ‘bạn
lành’ (kalyanamitta) đối với cha mẹ.
Do đó, chúng ta có thể thấy rất rõ ràng ở
đây là, một xã hội Phật giáo là nơi mọi người cố gắng để trở thành bạn tốt của
nhau. Cha mẹ cần cố gắng làm bạn tốt đối
với con cái, và con cái cũng phải cố gắng làm bạn lành đối với cha mẹ mình.
Anh chị lớn cần cố gắng làm bạn tốt với các
em của mình, và ngược lại các em cũng cần làm thế với anh chị mình. Người chồng cần cố gắng làm thiện hữu tri thức
đối với vợ, và vợ cũng phải là bạn lành của chồng mình. Chúng ta cần giúp đỡ
nhau trong việc làm giảm bớt đi những tình cảm tiêu cực trong lòng và cùng nhau
tạo ra một đời sống, một xã hội dựa trên từ, bi và trí tuệ.
Trong bài kinh trên, đức Phật kê ra bốn đức
hạnh. Giờ tôi xin lặp lại và khai triển
thêm về ý nghĩa của chúng.
Saddha(Tín Tâm) là niềm tin rằng đức Phật là
một chúng sanh hoàn toàn giác ngộ, rằng giáo lý của Ngài là chân lý, và chúng sẽ
đem lại giải thoát cho những ai thực hành chúng nghiêm mật. Đó là niềm tin rằng có những người hành theo
lời Phật dạy một cách đầy đủ và nhờ đó được giải thoát. Đó là niềm tin rằng trong tất cả chúng sanh ở
cõi ta bà này, những chúng sanh cao thượng đã được giải thoát này là đáng được
coi trọng nhất. Đó là niềm tin rằng với
tư cách là một chúng sanh, chúng ta có quyền đối với nghiệp của chính mình: sự
việc có tốt hay xấu, chúng ta trải nghiệm khổ đau hay hạnh phúc, đều tùy thuộc
vào chúng ta. Cuộc sống của chúng ta
không tùy thuộc vào thần linh, ma quỷ, chư thiên, thượng đế hay quyền lực thần
bí nào, mà tùy thuộc vào chính thân, khẩu và ý của chúng ta –cả trong quá khứ
và quan trọng nhất, là trong hiện tại.
Saddha chính yếu có nghĩa là niềm tin vào khả năng giác ngộ của chúng
ta, và tin tưởng rằng việc quan trọng nhất trong cuộc đời của một chúng sanh là
giải thoát khỏi khổ đau và gốc khổ đau.
Sila (đạo hạnh hay giới luật) là nét đẹp, sự
thánh thiện trong hành vi. Nó là khả
năng kiềm chế lời nói hay hành động gây hại cho mình hay cho người. Sila là sự giải thoát khỏi nghiệp xấu gây ra
qua thân hay khẩu. Sila càng thêm vững bền
khi chúng được bảo vệ bởi cảm giác xấu hổ đầy ý thức đối với những hành động bất
thiện (hiri), và sự sợ hãi đầy ý thức về các nghiệp quả của những hành động như
thế (ottappa). Sila tạo ra các chuẩn mực
đạo đức cần thiết cho những ai quyết tiến xa trong Phật pháp.
Caga (Xả, rộng lượng) muốn nói đến sự xả ly
khỏi vật chất, hoan hỷ trong sự xả bỏ, từ bi, và giúp đỡ người khác. Người có tâm xả bỏ thường tử tế, quan tâm đến
người, chứ không keo kiệt hay tự mãn.
Panna (trí tuệ) là cái biết phân biệt được
khổ đau và những uế nhiễm tạo ra khổ đau.
Con người luôn phải đối mặt với khổ đau, dầu không ai muốn có chút đau
khổ nào. Chúng ta khổ vì chúng ta không
biết khổ phát khởi như thế nào và làm sao để dừng nó lại. Tại sao chúng ta không biết? Bởi vì chúng ta không hiểu bản thân mà chúng
ta cũng không cố gắng để hiểu hết sức mình.
Khi nào chúng ta còn không hiểu bản thân thì chúng ta sẽ luôn là nạn
nhân của cảm xúc. Điều đó giống như bạn ở
trong căn phòng tối với một con rắn độc.
Liệu ta có thể đi qua lại trong một căn phòng như thế mà không bị rắn cắn? Chỉ việc tránh đụng chạm bàn ghế đã là khó.
Ở giai đoạn bắt đầu, trí tuệ dựa trên tưởng. Nhờ sự vận hành của ký ức mà ta có thể tàng
trữ những điều mình đã được nghe, được đọc về Phật pháp. Chúng ta điều kiện hóa cảm xúc của mình –cả tốt
lẫn xấu- bằng tưởng và ý nghĩ. Những ai
từng lắng nghe Pháp và nhớ đến chúng, có thể quán tưởng về Pháp cho đến khi
thông đạt, rồi sau đó họ có thể thiết lập con đường của sự suy nghĩ chín chắn. Đã được huân tập bằng cách đó, khi tâm rơi
vào một trạng thái bất thiện, nó không hoàn toàn trở nên hoảng loạn, nó không
rơi vào hố sâu, nó có thể nhanh chóng tự điều chỉnh lại. Một người chưa hề biết đến Phật pháp, khi bị
đối xử bất công, thì người đó thường trở nên giận dữ, thất vọng. Nhưng với người đã biết Pháp, người đó có thể
suy nghĩ rằng ngay chính đức Phật còn bị lăng nhục, làm hại, thì làm sao ta có
thể tránh khỏi điều đó? Quán tưởng được
như thế sẽ giúp ta có thể chấp nhận hoàn cảnh.
Bằng phương cách hồi tưởng lại những suy nghĩ khôn ngoan, chúng ta có thể
bắt đầu buông bỏ các tình cảm tiêu cực, bắt đầu tách xa sự sa đà vào rượu và chất
gây ghiện. Giai đoạn có trí tuệ phân biệt
giữa tốt và xấu, giữa cái có ích và cái có hại.
Nó giúp chúng ta có một cái nhìn thực tế, bình tĩnh về cuộc đời và thế
giới. Nhưng nó cũng không phải là chốn
nương trú an toàn, nhất là khi ta phát khởi các cảm xúc mãnh liệt. Ở một mức độ cao hơn của panna là trí tuệ
mang đến kiến thức và sự hiểu biết trong tâm của những ai giữ được giới luật
thanh tịnh và định kiên cố (Samadhi). Ở
giai đoạn này, trí tuệ không còn là suy nghĩ.
Nó nhanh hơn suy nghĩ nhiều, nó giống như một chiếc siêu phản lực, bay
nhanh hơn cả âm thanh. Trí tuệ là thấy
được sự vật rõ ràng như chúng thực sự là, đến nỗi chúng ta không còn muốn bám
víu vào chúng như là tôi hay cái của tôi.
Đó là trí tuệ cuối cùng có thể khám phá được sự thật là tất cả mọi thứ,
kể cả tư tưởng, tình cảm của ta, đều thuộc vể thiên nhiên, không có ai là chủ
thể. Đó là trí tuệ nhận thức ra rằng cuộc
đời của chúng ta không phải là một thành lũy trên đất hoang hóa, mà là một dòng
sông chảy êm ả qua khu vườn đời. Khi
chúng ta phát triển trí tuệ để nhìn ra được điều ấy, chúng ta có thể buông xả. Đức Phật dạy rằng việc khơi dậy lòng tin,
hành vi đạo đức, tâm xả và trí tuệ trong lòng cha mẹ là cách phục vụ cha mẹ tốt
nhất, nhưng Ngài cũng không bỏ qua những cách phục vụ, chăm sóc cơ bản
hơn. Phật dạy rằng người con tốt phải biết
chăm sóc cha mẹ. Việc chăm sóc này có thể
bắt đầu bằng vật chất, nhưng đó không phải là tất cả. Tặng quà cáp hay tạo cho cha mẹ sự thoải mái
là biểu hiện của tình thương yêu, nhưng đó không phải là bằng chứng của tình
thương yêu, và ta không thể dùng chúng để thay thế cho tình thương yêu thực sự.
Cách hành xử của con cái đối với cha mẹ thay
đổi theo từng gia đình, vì điều đó tùy thuộc vào nhiều yếu tố; thí dụ như số
con cái trong gia đình, độ tuổi của con cái; con cái còn sống trong gia đình
hay đã ra riêng, ở gần hay ở xa cha mẹ, vân vân.
Khi cha
mẹ già yếu, người con có hiếu phải chăm sóc họ.
Nếu thực sự điều này không khả thi (chứ không phải là viện lý do), thì họ
phải thăm viếng cha mẹ thường xuyên, hay chí ít cũng phải gọi điện thoại hay viết
thư thăm hỏi cha mẹ đều đặn, cũng như thông tin cho cha mẹ biết cuộc sống của
mình thế nào. Biết rằng con cái vẫn tưởng
nhớ, quan tâm đến mình là liều thuốc có thể mang đến cho cha mẹ tâm bình an, liều
thuốc này còn hiệu lực hơn cả các loại thuốc do bác sĩ kê toa. Chúng ta phải giúp đỡ cha mẹ trong tất cả khả
năng của mình. Khi cha mẹ đau yếu, nếu
ta có thể giúp tiền chữa bệnh thì quá tốt, nhưng nếu ta nghèo, không thể làm điều
đó thì hãy mang đến cho cha mẹ những gì ta có –thí dụ như thời gian. Hãy ngồi bên họ, đọc cho họ nghe hay chăm sóc
họ theo cách tốt nhất mà chúng ta có thể làm (thí dụ tắm rửa, làm vệ sinh, đút
ăn hay bóp tay bóp chân cho họ) –những việc làm này đối với cha mẹ đôi khi còn
giá trị hơn tiền bạc hay bất cứ món quà vật chất nào mà ta dành tặng cho họ.
Bài kinh mà tôi dẫn ở trên cho ta thấy rằng
yếu tố lớn nhất để tạo ra hạnh phúc hay khổ đau trong cuộc đời chúng ta là tư
tưởng và cảm xúc hay nói cách khác chính là tâm chúng ta. Vì lý do đó đức Phật dạy rằng những ai có thể
giúp cha mẹ mình phát triển các đức tính thiện lành và trải nghiệm được các trạng
thái tâm hỷ lạc thì người đó được vô vàn công đức. Đó là cách trả ơn khiến cha mẹ chúng ta được
có món quà vô giá.
Chúng ta cảm thấy hạnh phúc khi mang đến cho
cha mẹ những món quà vật chất, hay đối xử đặc biệt với họ, thí dụ, dẫn họ đi ăn
tiệm hay đi chơi vào những ngày lễ, nhưng các loại quà tặng đó luôn có giới hạn. Đặc biệt là các thứ quà vật chất, chúng có thể
bể, tan hoại và còn có thể là nguyên nhân đưa đến sự bất ổn cho những người già
đến nỗi chúng có thể là con dao hai lưỡi.
Sự chăm sóc, lo lắng cho cha mẹ chỉ giúp họ ngay trong kiếp sống
này. Vì thế đức Phật dạy rằng bên cạnh
những cách bày tỏ tình thương yêu, lòng biết ơn đáng tán thán như vậy đối với
cha mẹ, chúng ta không nên coi nhẹ việc lo cho phần tâm linh của họ. Những hạnh lành phát xuất từ trong lòng cha mẹ
hoàn toàn không có mặt tiêu cực. Chúng
không dựa vào các điều kiện bên ngoài, không ai có thể tước đoạt chúng, và
chúng là tư lương cho kiếp sống tương lai.
Vì lý do đó, đức Phật gọi các đức tính bên trong ta là tài sản cao thượng,
là của cải quý báu. Chúng tối cao vì
chúng là phương tiện giúp ta đạt được sự cao thượng thực sự của việc được hoàn
toàn giải thoát khỏi khổ đau. Chúng ta cần
mang thật nhiều hạnh phúc và sự thoải mái đến cho người ân của mình, nhưng đồng
thời cũng đừng quên những thứ cao xa hơn thế.
Làm giảm những khổ đau mà cha mẹ ta phải gánh chịu khi lang thang trong
cõi luân hồi vẫn không bằng làm giảm thiểu các nhân gốc gây ra khổ đau đó.
Tóm lại, những quy tắc trong Phật giáo về vấn
đề làm thế nào để trả món nợ thâm tình mà chúng ta mang đối với cha mẹ tùy thuộc
vào những điều chúng ta tin. Thí dụ:
Luân hồi tái sinh là khổ, và được giải thoát
khỏi sinh tử mới là chân hạnh phúc.
Tái sinh là do ái nhiễm (kilesa)
Chúng
sanh có thể diệt trừ ái nhiễm, nên chúng ta phải làm được điều đó.
Buông bỏ uế nhiễm, vung trồng hạnh lành là
cách tu tập đưa đến chân hạnh phúc.
Vấn đề là: làm thế nào chúng ta có thể
khuyên cha mẹ vung trồng tín tâm, giới hạnh, từ bi và trí tuệ như lời Phật dạy? Chúng ta cần chuẩn bị tinh thần để đón nhận
thất bại. Có thể chúng ta không thực hiện
được tất cả, hay chỉ đạt được phần nào kết quả.
Con chúng ta, “những cành non” còn khó uốn, thì “cây già” làm thế nào dễ
được?[1] Vì thế đừng bực bội hay bức xúc
đối với cha mẹ, đừng bỏ rơi họ, nếu không tâm bạn sẽ u ám, đầy tiêu cực. Thường không ai muốn thay đổi. Vì thế hãy hành động, cư xử tế nhị, khôn
khéo, và đừng đặt quá nhiều kỳ vọng. Hãy
làm vì đó là bổn phận con cái phải làm, nhưng đừng để tâm chúng ta bất an khi
đang làm việc tốt.
Điều quan trọng là chúng ta phải làm gương
cho cha mẹ. Giống như câu, “Hành động
còn lớn tiếng hơn lời nói”, nên đôi khi cách tốt nhất để thuyết phục người khác
không phải bằng lời nói. Nếu chúng ta có
thể để cho cha mẹ thấy được những lợi ích mà chúng ta đạt được khi hành theo Phật
pháp; nếu họ có thể thấy trong ta những đức tính từ bi, trầm tĩnh, yêu thương,
kiên trì và chu đáo, thì họ có thể có được tín tâm và động lực để thực hành
theo. Tóm lại, nếu chúng ta muốn giúp đỡ
cha mẹ, thì đồng thời chúng ta cũng phải tự giúp mình.
Có lẽ điều dễ nhất
là giúp cha mẹ chúng ta vung trồng đức tính thứ ba: xả, vì điều này cũng được đề
cao trong xã hội Thái. Tôi không thể
nghĩ là có một đất nước nào trên thế giới mà người dân nơi đó lại hoan hỷ trong
việc bố thí hơn là ở Thái Lan này. Một
người con tốt sẽ mời cha mẹ cùng đi cúng dường, dâng tặng phẩm vật cùng với
mình đề thực sự làm lợi ích cho Phật pháp và cho xã hội nói chung. Chúng ta cần phải có trí tuệ trong việc lựa
chọn địa điểm và phẩm vật cúng dường hay bố thí. Thí dụ, nếu cúng dường cho tăng đoàn, ta cần
phải biết là kinh Luật cấm người tu sĩ được đòi hỏi người cư sĩ tại gia không
có liên hệ với mình, bất cứ điều gì, trừ
trường hợp người cư sĩ đó đã trang nghiêm thỉnh cầu (pavarana) vị tu sĩ làm thế. Bạn không nên cảm thấy áy náy, áp lực nếu người
tu sĩ muốn kêu gọi bạn cúng dường cho họ.
Làm thế là vị ấy đã phạm giới, nên ta không cần phải sợ gây ra ác nghiệp
nếu như ta không làm theo lời yêu cầu. Trái lại, bố thí, cúng dường trong trường hợp
này không được công đức gì vì ta đã hỗ trợ cho hành vi trái đạo và bôi nhọ tăng
đoàn của người tu sĩ. Hãy trao tặng, bố
thí phẩm vật phù hợp –giá trị của món đồ không tương ưng với công đức được tạo-
và trao tặng trong cung cách để bạn có thể cảm nhận được niềm vui trước, trong
khi và sau khi hành động. Ít có điều gì có thể làm cho sự gắn bó giữa các thành
viên trong gia đình tốt đẹp thêm bằng việc cùng nhau làm điều thiện như bố thí.
Thêm nữa, chúng ta cũng có thể làm gương cho
cha mẹ bằng cách sống giản dị, không tiêu xài phung phí và không mê đắm vật chất
quá mức. Nhắc nhở cha mẹ bằng cách đó
(chứ không phải bằng cách thuyết giảng cho họ), có thể khiến cho họ xét lại
thái độ của họ đối với vật chất. Chúng
ta có thể là tấm gương để cha mẹ soi lại bản thân và như thế là chúng ta đã biết
cách phụng sự cha mẹ, vì được giải thoát khỏi sự bám víu vào vật chất là một ý
nghĩa khác của thuật ngữ caga (xả). Có
những người cha khi nhìn thấy một chiếc xe xịn đời mới thì cũng háo hức như mấy
cậu choai choai, ngược lại cũng có những bà mẹ khi ngắm những chiếc áo thời
trang hiện đại, cũng xuýt xoa như các cô gái trẻ.
Do lòng ham muốn hưởng thụ vật chất cuồng
nhiệt, ngày nay không còn là chuyện lạ khi các vị trung niên có những hành động
mà các vị lão niên ngày xưa sẽ coi là thiếu chín chắn. Do đó chính là việc chúng ta biết khi nào để
dừng, biết đâu là đủ, có thể nhắc nhở cha mẹ chúng ta làm theo.
Mặt khác, cũng tùy theo cá tính của người
làm cha mẹ. Nếu cha mẹ là người thỉnh
thoảng cũng biết đến chùa, nghe Pháp, thì khá dễ cho chúng ta đàm luận những vấn
đề có ý nghĩa với họ khi có cơ hội.
Nhưng nếu họ không quan tâm đến Phật pháp; nếu họ vẫn còn đầy đủ sức khỏe
và chưa bao giờ nghĩ đến cái chết không thể tránh khỏi, thì họ có thể sẽ khó chấp
nhận. Những vị xem các phiền não của
mình như của quý, như một thứ gì đó thêm gia vị vào đời sống của họ, sẽ cảm thấy
Phật pháp như là can thiệp vào cuộc sống của họ, và họ sẽ cố gắng tránh né hay
chối bỏ nó. Trong trường hợp này, chúng
ta phải chấp nhận và tôn trọng quyền tự do của họ. Đừng cằn nhằn hay o ép họ. Phật pháp không phải là thứ mà bạn có thể đem
áp đặt lên người khác, dầu bạn muốn cho họ được lợi ích. Nếu cha mẹ ta có không chấp nhận Phật pháp,
chúng ta cũng phải cho qua trong lúc này, và lúc nào cũng sẳn lòng, cũng hoan hỷ
để chia sẻ với họ những gì ta có thể bất cứ khi nào, nếu như họ có đổi ý.
Riêng đối với những bậc cha mẹ có ý hướng muốn
tìm hiểu Phật pháp, chúng ta có thể đem họ đến chùa để họ tạo công đức, nghe
Pháp, và hành thiền trong không gian tĩnh lặng.
Nếu họ vẫn còn mê tín về bùa phép, bói toán, đồng bóng, phù thủy, vân
vân, thì nên trao đổi với họ khi có thể.
Tuy nhiên, bạn cần phải trao đổi đúng nơi, đúng lúc, đừng làm cho cha mẹ
cảm thấy là bạn hiểu biết hơn họ, là bạn khôn ngoan hơn họ. Hãy khuyến khích họ thường xuyên tập thể dục:
Khí công rất tốt vì nó cũng là một hình thức thiền tập. Hãy tìm cho họ những quyển sách hay về Phật
pháp để họ đọc, hay những băng đĩa về Phật pháp để họ nghe. Trao đổi với họ về sinh, già, bệnh và chết một
cách tự nhiên, để họ thấy đây không phải là những đề tài ta cần tránh né khi
trò chuyện. Tín tâm và trí tuệ phát khởi
từ sự can đảm đối mặt với những sự thật trong cuộc sống. Không phải là ta có thể trốn tránh những sự
thật này chỉ bằng cách phớt lờ chúng.
Điều quan trọng cần phải nhớ là đức Phật
không dạy rằng một người con tốt là phải làm tất cả những gì cha mẹ bảo hay yêu
cầu ta làm. Từ chối không làm như cha mẹ
muốn không phải lúc nào cũng sai. Vì
sao? Vì có những cha mẹ bảo hay bắt con
cái phải làm những điều không hợp đạo lý.
Nếu cha mẹ bảo chúng ta làm những việc phạm pháp hay tạo các ác nghiệp
như uống rượu, cờ bạc, thì không có gì sai, nếu ta trái ý họ. Chúng ta không chỉ có bổn phận báo ơn đối với
cha mẹ. Chúng ta còn là con của Phật, và
lòng từ bi của Ngài đối với chúng sanh còn lớn hơn các bậc cha mẹ. Do đó bổn phận báo đáp của chúng ta đối với
Ngài còn phải to lớn hơn. Vì vậy nếu những
nỗ lực để bày tỏ lòng biết ơn của chúng ta đối với cha mẹ trái ngược lại với
nguyện ước được làm việc thiện và sống chân thật, thì người trí, với sự cẩn trọng,
từ tốn nhất, nên đem những gì đúng, thiện lành làm kim chỉ nam cho mình. Làm người con hiếu thảo đối với cha mẹ không
có nghĩa là bằng mọi giá phải làm theo ý họ.
Tuy nhiên, chúng ta phải có những quy tắc rõ ràng, đúng đắn và phải cố gắng
trung thực, không được tỏ ra vô cảm, cứng nhắc.
Nếu có thì giờ vào buổi sáng hay chiều, hãy
mời cha mẹ cùng tụng kinh hay hành thiền với bạn. Sự bình an, tĩnh lặng mà ta có thể trải nghiệm
qua thiền tập mang đến cho ta hạnh phúc, sức mạnh và sự sáng suốt tuyệt vời. Người có tâm bình lặng thường được sống lâu
vi sức mạnh của tâm bình ổn có thể chế ngự sự buồn phiền, ưu tư và lo lắng làm
suy yếu hệ thống miễn nhiễm của chúng ta.
Nếu cha mẹ chúng ta biết tập hành thiền cho đến khi trở thành nhuần nhuyễn,
thì họ sẽ có được chốn nương tựa nội tại vững chải khi họ bệnh hoạn.
Công phu thiền tập của chúng ta chỉ có hiệu
quả khi nó được phát triển cùng với nỗ lực kiềm chế lời nói và hành động. Một phương cách dễ dàng để giúp cha mẹ giảm
thiểu các uế nhiễm của họ là đừng đắm chìm vào những câu chuyện bất thiện với họ. Thí dụ, nếu cha mẹ ta bắt đầu nói dèm pha hay
nói xấu ai đó thì chúng ta chỉ cần giữ im lặng.
Nếu chúng ta không góp chuyện hay hùa theo, thì họ sẽ sớm nản lòng với
những chuyện đó và có thể sẽ có được chút ít tỉnh giác.
Con cái khi còn sống trong gia đình phải giữ
thái độ trung dung, không bênh vực bên nào khi thỉnh thoảng giữa cha mẹ có xảy
ra sự cãi vả. Trong lúc căng thẳng, cả
hai cha mẹ thường cố gắng kéo con cái về phía mình. Người con biết đạo sẽ không để tình huống này
xảy ra, mà cố gắng làm người hòa giải công bằng. Chúng ta lúc đó phải cố gắng xoa dịu người
đang giận dữ, và cần cẩn thận để không nói hay làm điều gì khiến tình thế thêm
phức tạp. Chúng ta cần cố gắng giúp cha
mẹ hóa giải những sự khác biệt, dằn co giữa họ mà không để cho bên nào cảm thấy
là mình thắng cuộc hay thua cuộc. Chúng
ta cần kiên nhẫn lắng nghe cha mẹ càu nhàu, than vãn. Lắng nghe cha mẹ, giảng hòa khi họ tranh cãi,
khuyến khích họ nói lời chánh ngữ: đây cũng là những cách mà chúng ta có thể
dùng để trả công ơn mà ta đã nợ cha mẹ.
Nếu chúng ta có thể làm bạn lành đối với cha
mẹ trong một thời gian dài, thì họ sẽ bắt đầu tin cậy, nể trọng ta ngày càng
nhiều hơn. Ảnh hưởng của chúng ta đối với
họ và cơ hội để hướng dẫn họ hành thiện sẽ ngày càng tăng trưởng. Nhưng việc này cần có thời gian, chúng ta
không nên vội vã. Chúng ta cũng cần ghi
nhận là bản thân mình đã được lợi ích như thế nào từ những nỗ lực trên vì ta cần
rất nhiều nhẫn nại để đối xử với người lớn tuổi đúng cách. Vì lớn tuổi, người ta thường trở nên khó chịu,
hay quên và hay cằn nhằm. Chúng ta dễ bực
mình vì những điều này khi ở bên họ, vì thế chúng ta cũng cần có chánh niệm để
duy trì nội tâm bình ổn. Do đó, bằng
cách giúp đỡ cha mẹ, chính là ta cũng tự giúp bản thân.
Thật ra sống trên thế giới này là ta đã nhận
rất nhiều ân sủng. Chúng ta có trồng thực
phẩm mà mình dùng hôm nay không? Do đâu
mà chúng có? Chúng ta có tự may bộ quần
áo mình đang mặc không? Vải vóc từ đâu
mà ra? Chỉ một mảnh vải sợi cũng cần phải
có người trồng vải sợi, người hái trái vải, người dệt vải, thợ may, người thiết
kế, người chế tạo ra máy dệt và máy may.
Nếu ta sử dụng điện thoại, xem truyền hình hay ngồi trong xe hơi, là
chúng ta đã dựa vào trí thông minh, tính cần cù của bao nhiêu người trong bao
nhiêu xứ sở? Biết trân trọng nguồn gốc của
những gì mình sở hữu có thể giúp tâm ta lắng đọng và giúp ta cảm nhận về mối
liên chằn chịt giữa con người trên thế giới này với nhau, mà mắt thường sẽ
không nhìn thấy được.
Chúng ta không chỉ phải hàm ân người đồng loại
mà cũng phải mang ơn cả những sinh vật khác.
Thí dụ, nếu không có sâu bọ ăn đất, chúng ta sẽ không thể trồng trọt, mà
không có canh nông thì con người cũng không thể tồn tại. Vì thế chúng ta cũng mắc nợ sâu bọ. Rồi đến những con trâu nước, bò, và nhiều giống
thú nuôi khác. Có bao giờ chúng ta cảm
thấy hàm ân chúng không?
Thật ra, tôi còn nghĩ là nếu con người biến
mất khỏi mặt đất, chắc là tất cả các sinh vật khác sẽ tụ hội lại mà reo hò đến
khản tiếng. Con người quả thật rất vô
ân: chúng ta tàn phá thiên nhiên, làm hao mòn tài nguyên thiên nhiên, và gần
như biến trái đất thành nơi không thể sống –tất cả chỉ vì lợi ích cá nhân. Đằng sau những hành động đó là ảo tưởng rằng
chúng ta là chủ trái đất này, nên không
có trách nhiệm gì đối với các sinh vật và cây cối đang cùng sống trên đó. Là người Phật tử, chúng ta cần phải có trí tuệ
hơn thế, vậy mà phần đông cũng hấp thụ một cách vô thức theo phương Tây cách
nhìn cuộc đời điên rồ như thế. Kết quả
là chúng ta sống vô cảm. Trong tương lai
chúng ta và con cháu chúng ta sẽ phải hứng chịu hậu quả từ những nghiệp do ta tạo
ra ngày hôm nay, vậy chúng ta còn trách được ai ngoài bản thân? Giờ cũng không quá trể để sửa chữa vấn đề,
nhưng chúng ta cần phải thay đổi thái độ để có thể nhận thức sâu rộng về sự tử
tế và ân sủng mà trái đất này ban tặng cho ta.
Chúng ta cần hợp tác, cần đoàn kết để làm giảm thiểu sức mạnh của tánh
ích kỷ của con người. Và chúng ta có thể
bắt đầu điều đó trong chính gia đình của mình.
Đức Phật dạy rằng thật khó để tìm được ai
không từng là cha, mẹ, anh, chị, em của chúng ta trong những kiếp sống trước. Do đó, khi quán chiếu về công ơn ta mang đối
với cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình, thì hãy nhớ đến lời dạy
này. Hãy nỗ lực thêm để bày tỏ lòng biết
ơn đối với tất cả nhân loại. Hãy huân tập
để làm bạn lành đối với tất cả những ai ở quanh ta và trên trái đất ta đang sống.
Cuối cùng, xin nguyện cho tất cả được sống
làm người bạn lành. Hãy là bạn lành đối
với bản thân bằng cách chỉ hành động, nói năng và suy nghĩ những điều tốt lành
cho bản thân và cho người. Hãy là bạn
lành đối với những người đã giúp bạn, nhất là cha mẹ mình. Hãy mang đến cho họ những gì bạn có thể, hãy
giúp họ sao cho xứng đáng với những gì họ đã giúp bạn. Quan trọng nhất là, với sự gia hộ của Tam Bảo,
mong rằng các bậc cha mẹ và tất cả chúng ta luôn được tăng trưởng, được sung
túc trong các hạnh lành của tín tâm, giữ giới, bố thí và trí tuệ.
Diệu Liên Lý Thu
Linh
(chuyển ngữ theo
sách Daughters & Sons, với sự đồng ý của ngài Ajahn Jayasaro, thông qua
Monastery Secretary Amaravati, ngày 25.8.2014).