ĐỖ DUNG NGUYỄN

 
 
 
THĂM CHỒNG
Đỗ Dung
 
 
Vi thu xếp dọn hàng về sớm hơn thường lệ.  Hôm nay gặp may Vi được một mối hời.  Một bà khách dáng vẻ một người phúc hậu, giàu có, đưa một bọc toàn những áo thun, quần jean, thêm quần áo trẻ con đắt tiền còn tốt nguyên và tự đưa ra một giá rẻ mạt.  Vi giở ngay gói tiền đếm đưa bà, không cò kè thêm bớt.  Trước khi đi bà còn dúi vào tay Vi một mẩu giấy nhỏ ghi địa chỉ của bà và nhắn Vi đến nhà, bà còn nhiều thứ muốn bán.
Vừa bày những món hàng mới mua Vi đã gặp ngay khách sộp, có hai quần jean thôi mà đã hơn gía Vi trả cho bà khách để mua nguyên cả bọc lớn.  Ngoài ra Vi lại bán thêm được mấy cái “đài” và vài món qùa vặt vãnh cho mấy chú bộ đội cũng được giá.
Trên đường đạp xe về Vi ghé mua cho bé Tường Vân một cái bánh giò,  một phong bánh đậu xanh để mẹ uống trà buổi sáng và một cân giò lụa cho cả nhà.  Vi định bụng sau bữa ăn sẽ rủ Mai hoặc Quỳnh cùng đến nhà bà khách xem có mua thêm được món gì nữa không.
Vừa thấy Vi, bé Vân lủn tủn chạy ra bi bô đón mẹ.  Mai nhìn chị tủm tỉm cười:
-     Chị Vi có tin vui.
-     Cái gì?
-     Thư anh Tùng.
Mai phất phất chiếc phong bì vàng úa dứ trước mặt Vi, Vi chạy vội lại giật lấy, run run bóc.  Trong phong thư ấy chỉ vỏn vẹn một tờ giấy phép thăm nuôi lạnh lùng.  Vi bàng hoàng bật khóc trong nỗi tủi thân, Tùng không kèm thêm được cho nàng một lá thư nữa sao.  Nỗi mừng sắp được gặp chồng không bù nổi với nỗi hờn giận dâng trào.  Nét bút của Tùng, dòng chữ thân yêu rõ ràng ghi địa chỉ trên bao thư mà sao Tùng nỡ lòng nào không viết thêm cho nàng vài chữ cho thỏa nỗi nhớ thương, những đau khổ nhọc nhằn của nàng trong thời gian qua. Không một lời thăm con, không một lời hỏi vợ.  Nghĩ miên man mà nước mắt nàng cứ tuôn.
Mai hoảng hốt cầm tờ giấy lên đọc, quay lại nhìn chị cười xoà:
-     Bà Vi này buồn cười thật.  Đúng là mít ướt, buồn cũng khóc, vui cũng khóc.  Sắp được đi thăm chồng, anh Tùng lại ở ngay thành Ông Năm, Hóc Môn gần xịt.  Hai tuần nữa đến ngày thăm rồi, chị lo sửa soạn, Mai sẽ đi phụ chị khuân đồ và trông con bé Vân cho hai ông bà tha hồ mà tỉ tê.
Rồi Mai hạ giọng:
-     Đừng làm mẹ buồn.  Bố chưa có phép thăm kìa.
Vi gạt nước mắt nhìn Mai như biết ơn và chợt nghĩ biết đâu người ta không cho phép Tùng viết chứ Vi biết, Vi hiểu Tùng mà, không lẽ có dịp mà chàng lại không nhắc nhở tới vợ con.
Hai tuần lễ chờ đợi, hai tuần lễ trải dài nhung nhớ, Vi làm một danh sách những gì cần đem theo khi vào thăm nuôi, thuốc men, đồ ăn, vật dụng, quần áo...Hàng ngày Vi vẫn phải đến sạp hàng của mình ở khu chợ trời để mua bán, bán mua. Buổi tối về soạn lại danh sách đồ thăm nuôi để thiếu gì thì sáng hôm sau sẽ đi mua thêm trước khi dọn hàng.  May mắn, qua mối hàng của bác Thụy, người đàn bà sang trọng đến bán quần áo cho Vi bữa trước, ba chị em Vi được giới thiệu đến những gia đình quen của bác đã được giấy tờ bảo lãnh của thân nhân ở nước ngoài và đã có danh sách chuyến bay, giúp họ bán đồ đạc trong nhà trước khi đi định cư nước khác.  Mấy chị em Vi cũng kiếm được khá tiền.
Hai ngày trước khi đi thăm Tùng, Vi nghỉ hẳn ở nhà lo xếp dọn, nấu nướng. Thuốc men đã mua đầy đủ, Vi còn cẩn thận nhét thêm một lọ dầu xanh, một lọ dầu Nhị Thiên Đường và một túi nhỏ sâm lát.  Đồ ăn khô đã gói ghém cẩn thận, tôm khô, bột đậu đủ thứ, mè đã rang, trộn muối, giã sẵn từ trước, mấy túi bột gạo lức, một bịch thịt chà bông lớn, một bịch kẹo và một bịch đường, vài hộp sữa đặc.  Vi cẩn thận xếp mỗi thứ vào hai lớp túi ni lông cho chắc.
Vi mở tủ lạnh lấy thau thịt nạc đã được thái hình khối vuông to bằng nửa quân cờ, ngâm nước mắm, đường, hành tỏi và một tô thịt rọi luộc chín thái hạt lựu ướp tỏi và xả ớt từ hôm qua. Trời chợt đổ cơn mưa rào, mưa rơi lộp độp trên mái tôn nhà bếp.  Một cơn gió lạnh lướt qua khiến Vi chợt rùng mình, lửa trong chiếc bếp dầu hôi vẫn bập bùng. Sau khi phi tỏi, bỏ nắm xả bằm vào cho thơm, Vi đổ tô thịt rọi vào chảo xào cho săn thêm miếng thịt.  Chỉ hai ngày nữa thôi Tùng của Vi được ăn những món nàng đang nấu đây. Tùng ơi, anh biết em nhớ anh dường nào không.  Tay đảo đều và nước mắt Vi lại ứa ra. Hơn một năm trời xa cách nhớ nhung, Vi nhớ lại những kỷ niệm êm đềm ngày hai người hò hẹn rồi đến những nỗi oan khiên, cơn sóng gió đổ ập xuống trước ngày cưới. Ngày chào đời của con bé Tường Vân, những hạnh phúc êm đềm, ngọt ngào của một gia đình nhỏ.  Vi đổ từ từ bát mắm ruốc vào chảo thịt, thịt và mắm cứ thế quyện vào nhau và cứ thế Vi xào xong chảo thịt rọi mắm ruốc thơm lừng, rắc thêm chút hạt tiêu xay, sau khi trộn đều nàng nhấc chảo sang một bên chờ cho nguội. Vi lấy một chảo to khác bắt đầu món ruốc sỏi.
Có tiếng cửa mở, mẹ Vi  xách một giỏ nặng ướt lướt thướt bước vào, rũ chiếc áo mưa, xuống bếp thấy con gái đang rang chảo thịt, bà nhắc:
-     Con để nhỏ lửa, đun liu riu cho thật cạn, nhớ cho nhiều nước mắm, nấu cho thật cô đặc vào miếng thịt.  Hong trên bếp lửa thật nhỏ cho khô, mai được nắng phơi thêm cho thật nỏ thì mới để được lâu.  Mẹ mới ghé chợ mua cho anh Tùng ký đường thẻ, bọc chuối khô, con cá khô, mấy bao lương khô và mấy bao thuốc lá. Mẹ biết anh Tùng không hút thuốc nhưng cứ phòng xa, nhỡ có lúc cần chia sẻ với bạn bè hay lo lót cho mấy người quản giáo.
Bà chép miệng:
-     May trời thương các con buôn bán khá, có đồng ra đồng vào chứ nếu không thì cơm còn chẳng đủ ăn lấy đâu mà lo quà cáp.
Bà lại thở dài:
-     Không biết bao giờ mới đến lượt thăm bố con. Không biết ông bị đày ải tận đâu, sống chết thế nào.  Mẹ lo quá.
Vi nhìn mẹ xót xa. Nhớ bố, thương mẹ mà biết nói gì đây.
Hôm sau nắng to, Vi nghe lời mẹ trải mớ thịt đã hong khô ra phơi. Những viên ruốc sỏi thật khô, thơm mùi nắng.
Cả buổi chiều Vi ngồi sắp xếp mọi thứ vào hai chiếc giỏ cói to, cũng may Mai ra bán hàng thay chị thấy có người đem bán mấy lon sữa Guigoz không, Mai mua hết đem về cho chị.  Những cái lon nhôm này đa dụng lắm. Vi lèn chặt mắm ruốc vào ba lon, ruốc sỏi vào ba lon, còn thừa một chút để lại nhà ăn.  Vi cuốn mấy tờ giấy bạc như điếu thuốc, bọc ni lông cẩn thận nhét dưới đáy lon mắm ruốc. Nàng không quên bỏ mấy quần đùi vải, hai bộ bà ba xanh đậm bằng vải thô, chiếc áo len, chiếc khăn mặt, cục sà bông và bàn chải cùng ống kem đánh răng, một xấp giấy viết thư, phong bì, tem và tấm ảnh của hai mẹ con mới chụp. Cuối cùng cũng thành ba giỏ.  Xách thử thì giỏ nặng, giỏ nhẹ, Vi lại giở ra xếp lại cho ba giỏ nặng đều.  Ngày mai cô Mai sẽ xách cho chị hai giỏ,  Vi xách một còn một tay nàng dắt bé Tường Vân. Vi nhắc Mai nhắn ông Ba xích lô máy vẫn thỉnh thoảng chở hàng cho Vi nghỉ một buổi đưa chị em Vi lên Thành Ông Năm.
Cả đêm Vi trằn trọc không ngủ, nghĩ ngợi lung tung, chuyện cũ, chuyện mới chập chùng.  Mệt qúa nàng thiếp đi, nàng bỗng thấy hai vợ chồng nàng cùng nắm tay con đi trong khu vườn đầy hoa đẹp dị thường, thỉnh thoảng hai người nhấc bổng bé Vân lên, con bé cười khanh khách.  Nắng vàng tươi, trời trong xanh nhưng sao lại mưa, mưa nhẹ, những hạt mưa nhỏ như những hạt bụi, mong manh như những sợi tơ trời.  Con bé buông tay cha mẹ ra, tung váy quay tròn, nàng cũng quay tròn, hai vạt áo dài quấn quýt bay.  Mưa, mưa trong nắng hiện lên những vệt cầu vồng ...đẹp, đẹp quá.  Vi như ngụp lặn trong niềm hạnh phúc tuyệt vời.
-     Vi,Vi...Dậy đi con, sáng rồi.
Mẹ lay nhẹ đánh thức Vi, nàng mở mắt nhìn quanh.  Qua cửa sổ, bầu trời đã sáng ra như màu sữa loãng. Tiếc quá, nàng đã trở về thực tại sau một giấc mơ hoa.
-     Vi ơi, trại anh Tùng ở gần, con lại đi xích lô máy không vất vả, con sang quán bác Đạo mua cho anh tô phở, nước bỏ riêng vào bình thủy, khi ăn chan ra cho nóng.  Mẹ có bỏ mấy qủa quýt để khi gặp nhau bóc ra ăn cho đỡ khát nước. Đợi ông Ba tới thì chị em đi. 
Quỳnh nghe mẹ nói không chờ sự đồng ý của Vi xách gà mên và bình thuỷ chạy ngay sang quán phở mua cho chị. Mẹ Vi lấy thêm chiếc giỏ ni lông vẫn đi chợ có mặt đáy phẳng và cứng sắp gà mên phở, bình thuỷ, đũa muỗng cho con, thêm mấy cái bánh giò, bánh dầy chả, mấy qủa quýt cho các con đi ăn dọc đường.
Người ngồi trước mặt Vi là Tùng đây sao.  Vi ngỡ ngàng, lạ lẫm, bàng hoàng.  Mặt Tùng như biến dạng, đen đủi.  Cả người như chỉ còn da bọc xương. Đầu chàng như chiếc sọ khô, hai mắt sâu hoắm.  Đôi chân như hai cây sậy bơi trong ống quần.  Hai cánh tay khẳng khiu như hai que củi.  Hơn một năm trời bị đầy đọa, thiếu ăn mà thể xác biến đổi đến thế sao.  Vi nhìn Tùng đăm đăm, nỗi xót thương trào dâng, nước mắt tuôn như suối.
-     Anh Tùng, cố giữ gìn sức khỏe. Phải mạnh khỏe nghe anh.
Tiếng nói như pha tiếng nấc tức tưởi, nghẹn ngào.
Tùng yên lặng nhìn như muốn nuốt chửng vợ con, nước mắt muốn trào ra mà cố nén.  Rồi tiếng nói như từ cõi xa xăm:
-     Anh nhớ em, nhớ con.  Anh lo cho em và con.  Gặp em, nhìn thấy em thế này là anh yên chí.  Em cố lo làm ăn với Đỗ Quyên, đừng lo lắng cho anh.
Bé Tường Vân nhìn cha sợ sệt, hình ảnh của bố Tùng khác hẳn, mẹ Vi hàng đêm vẫn lấy hình bố ra kể chuyện cho con về bố. Vi đẩy con bé về phía Tùng
-     Con mi bố đi, bố Tùng đó.
Bé Vân nhìn mẹ, nhìn dì Mai như dò hỏi, Vi bế hẳn con lên, đặt nó lên bàn đẩy về phiá Tùng, Tùng nhân cơ hội chuyền sang tay Vi một cuộn giấy con quấn chặt như điếu thuốc lá. Nàng cầm lấy và bỏ ngay vào túi áo bà ba.
Chiếc bàn dài ở giữa cách ngăn, hai vợ chồng trẻ im lặng nhìn nhau. Thỉnh thoảng nghe tiếng nấc uất nghẹn của Vi.
Mai lẳng lặng lấy phở sắp ra tô, lấy bình thuỷ rót vào bát phở, nước dùng nóng còn bốc khói mời anh ăn rồi lấy cớ bước ra ngoài.  Căn phòng thăm nuôi dài, thông thống như quán chợ, hai dãy bàn ghế kê nối đuôi nhau, dãy này song song với dãy bên kia.  Người thăm và người học tập ngồi đối diện nhau qua chiếc bàn dài.  Hai đầu dãy mấy người bộ đội đứng gườm gườm kiểm soát.
Nhìn khung cảnh xung quanh, những buồn vui hội ngộ, những giọt lệ ngắn dài, những phờ phạc âu lo... Có những bao qùa to tướng, có những bọc quà quá khiêm nhường.  Những bà mẹ hay người vợ từ xa đến cũng xác xơ, tiều tụy.  Những đứa bé ngỡ ngàng, những đứa con lớn, hiểu biết hơn nhìn cha mà gục đầu rưng rức khóc.  Nhưng tội nhất vẫn là hình dung xác xơ của những người học tập.  Dù chưa đến nỗi rách rưới tang thương nhưng áo đã sờn, quần đã bạc phếch.  Mặt rõ là đói và hiện lên những nỗi lo lắng, ưu tư.  Lưng quần thắt chặt cho khỏi tuột thì dúm dó đằng trước, dồn cục đằng sau vì chiếc quần từ ngày đi nay đã trở thành qúa rộng. Tuy nhiên các anh vẫn còn một nét gì đó của những người đã từng có một thời hiên ngang. Nghĩ đến Vi, Mai thương chị nhưng cũng thầm biết chị mình còn may mắn hơn nhiều người. Cuộc sống chưa đến nỗi thê lương và đi thăm chồng không đến nỗi vất vả quá.  Nghĩ đến ông anh rể Mai cũng bùi ngùi.
Qua giây phút xúc cảm ban đầu, Vi thủ thỉ kể chồng nghe những công việc của nàng bây giờ.  Nàng kiếm tiền được, cuộc sống êm đềm bên mẹ và hai em.  Bé Vân ngoan, được cả nhà thương yêu dạy dỗ, sang năm bé đã đến tuổi vào Mẫu giáo. Tùng làm quen con bé, bón cho con ăn và lấy ngón tay quẹt nhẹ vào người, chọc lét cho con bé nhoẻn miệng cười.  Niềm vui như trở lại với gia đình nhỏ bé, hai cha con ăn xong bát phở Vi bóc quýt cho cả nhà cùng ăn. Con bé Vân đã quen với bố nũng nịu nói:
-     Sao bố đi lâu qúa?  Bao giờ bố mới về với mẹ, với con?
-     Bố đi học, bao giờ học xong bố về.  Con ở nhà phải ngoan, phải nghe lời bà, nghe lời mẹ với các dì.  Bao giờ bố về bố sẽ thưởng con nghe!
-     Bố cũng phải ngoan nghe!  Bố học giỏi nghe!  Bố mau về nghe!
Tiếng trẻ ngây thơ, ríu rít đem lại không khí đầm ấm, hai người đã có lúc cười vì những câu nói ngây thơ của con bé.  Mai quay lại thấy không khí bớt căng thẳng cũng ngồi xuống góp chuyện hỏi thăm anh về những ngày sống xa gia đình, những người bạn tù của anh.  Mai nhí nhảnh lôi ra mấy chiếc bánh dầy, bánh giò đem theo, nháy mắt đưa Tùng:
-     Anh cho em gửi cho chàng nào còn độc thân, cô đơn nhất trại!
Tùng cũng vui lây với lời nói đùa của cô em vợ, tố theo.
-     Cô Mai nói đấy nhé, chịu có người yêu học tập anh sẽ làm mai.
Sau những câu chuyệntrao đổi với hai chị em Vi, Tùng như cất được gánh nặng.  Trong trại, nỗi lo âu nhất của Tùng là không biết mẹ con Vi xoay sở ra sao với hoàn cảnh mới. Tùng biết Vi mảnh mai, yếu đuối, tình cảm dạt dào và rất mau nước mắt, nay thấy Vi mạnh mẽ, lanh lợi ra Tùng rất yên tâm nhưng nghĩ lại phận tù tội của mình, cứ vài tháng lại có danh sách chuyển trại, những hồi hộp lo âu không biết bao giờ đến lượt mình  và biết ngày nào được về với vợ con.  Nhìn khuôn mặt yêu kiều của Vi lòng chàng quặn đau.  Nghĩ đến lòng chung thủy của vợ chàng lại càng xót thương.
-     Vi, như anh đã nói, chị em chịu khó làm ăn với cô Quyên, phần anh có nhà nước lo.  Nhớ nghe lời anh.
 Tùng dặn đi dặn lại việc làm ăn với Quyên vì khi Tùng ở nhà đã có tin Quyên đến bến bờ tự do. Vi hiểu Tùng muốn nhắn nàng cứ tìm đường đem con vượt biên, đừng lo lắng cho Tùng. Vi rưng rưng:
-     Anh Tùng, em mong anh giữ sức khỏe, học tập tốt anh sẽ về, chúng mình sẽ đi thăm bác Vĩnh (anh của mẹ Vi ở Thuỵ Sĩ).  Em chờ anh.  Ráng học tập tốt để mau về với em, với con. Em chờ, anh yên tâm, mẹ con em chờ anh.
Mai tiếp lời:
-     Mẹ biết anh không hút thuốc nhưng cũng mua thuốc tặng anh để thỉnh thoảng anh ngoại giao đấy.
-     Anh gửi lời cám ơn mẹ, anh sẽ chia cho mấy người bạn, có thuốc lá họ mừng lắm. Hồi này họ phải hút thuốc lào rồi.  Anh không cần phải ngoại giao với ai hết Mai ạ.
Như chợt nhớ ra Tùng lấy trong chiếc túi vải vẫn để dưới chân nãy giờ những món quà tặng.  Cái ly nhỏ xíu bằng nhôm của bé Vân khắc hình con gấu xinh xinh ngồi trên thảm cỏ bên những bông hoa nho nhỏ. Chiếc lược bí khắc hình con hạc với dòng chữ Kính biếu mẹ.  Ba cái lược nhỏ gọn trong lòng bàn tay, một chiếc khắc hoa Tường Vi với dòng Em yêu dấu, lược tên Diễm Quỳnh với đóa Quỳnh Hương và Ngọc Mai với một cành Mai dịu dàng.
-     Những lúc rảnh rang trong trại tụi anh làm, quà kỷ niệm của anh đây.
Tiếng kẻng vang lên báo đã hết giờ thăm nuôi.  Bịn rịn, rưng rưng, bùi ngùi, lưu luyến...chưa có cuộc chia ly nào ngậm ngùi kẻ ở người đi như cuộc chia tay não nùng sau buổi thăm tù cải tạo lần đầu tiên.
 
Đỗ Dung
 
 
MỘT THỜI CON GÁI
Đỗ Dung
 
 
 
Qua khung cửa sổ, mặt trời mới ló lên khỏi ngọn đồi phía xa. Những vạt nắng vàng nhẹ như tơ, dịu dàng như thì thầm với hoa, với lá rồi êm ả lướt nhẹ, mỉm cười với những cảnh vật nắng đi qua. Sau những tháng đông lạnh giá, qua vài cơn mưa xuân, trời đất như chuyển mình. Những đồi cỏ úa như được thay áo mới, đổi sang màu xanh mướt cỏ non. Cây cối bắt đầu đâm chồi, nảy lộc và những nụ trên cành đã chúm chím nở hoa.
Khuê vươn vai, nhìn sang ông chồng vẫn còn ngủ say, tiếng ngáy đều đều, mệt nhọc. Khuê chợt mỉm cười nhớ lại hồi mới lấy nhau nàng thường trêu chọc Thiên, ví tiếng ngáy cuả chàng như tiếng đàn Violin du dương trầm bổng. Cây đàn đã chuyển thành xưởng cưa gỗ hồi nào Khuê chẳng rõ và bây giờ những cỗ máy cưa già thỉnh thoảng lại lọc sọc như sắp rớt bù loong!
Sống với nhau gần bốn mươi năm, đã có ba mặt con, một bầy cháu nội ngoại ríu rít. Khuê đã ngoài sáu mươi và Thiên đã quá tuổi cổ lai hi còn gì.
Không dám động mạnh sợ phá giấc ngủ của chàng, Khuê rón rén bước ra khỏi phòng.
Khuê ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế mây ở vườn sau, hai tay ủ tách cà phê nóng. Buổi sáng thật êm đềm, đồi cỏ mênh mông, những đường cong của sườn đồi uốn lượn nhẹ nhàng in trên bầu trời xanh trong, những cụm mây trắng nhẹ như bông lững lờ trôi làm hồn Khuê chơi vơi trở về những ngày tháng cũ, nhớ lại hình ảnh Đồi Cù và Thung Lũng Tình Yêu của Đà Lạt xa xưa. Ngày đó nàng yêu Đà Lạt vô cùng, cứ đợi đến dịp nghỉ hè là lên thành phố thần tiên ấy. Ngày ngày lang thang trong rừng thông nghe tiếng reo vi vu. Lăn mình trên những thảm cỏ xanh, tắm mình trong nắng. Buổi chiều dạo quanh bờ hồ rồi thả bộ dọc theo những con đường nhỏ hai bên bao bọc bởi những ngôi biệt thự kiến trúc kiểu tây phương, ẩn mình sau những vườn hoa đẹp đẽ đủ màu. Những đêm khuya Khuê đứng tựa vào thành lan can ngoài ban công, đắm chìm trong ánh trăng lung linh huyền ảo, nhìn xuống con đường dốc dưới kia để mơ chàng Hoàng Tử. Juliet chờ đợi Romeo.
Ngày ấy, những người con gái vẫn còn rụt rè, e lệ trước người khác phái và phạm vi giao thiệp chỉ trong vòng những quen biết họ hàng, hoặc cùng lắm là bạn của anh hay anh của bạn. Người thiếu nữ chỉ được quyền chọn lựa trong số những người đã chọn mình, hiếm hoi lắm mới có người dám phá luật làm kẻ tiến trước trong cuộc tình lứa đôi. Tuổi dậy thì Khuê cũng mơ một hình bóng, tưởng đến người trong mộng và mong tìm thần tượng để tôn thờ, thả hồn theo mây, theo gió không biết người ấy đang ở đâu. Nghe những chuyện mối mai nàng hờ hững, nàng muốn được nếm mùi vị của tình yêu và kết duyên với người vì yêu nàng mà tới.
Ngày mới đậu Tú Tài hai, các bạn tổ chức ăn khao ở nhà Khuê, nàng đã nhận được một bó hồng nhung từ một giáo sư, anh họ của Mai Trâm, bạn cùng lớp. Chàng không dạy Trưng Vương nhưng được Trâm nhờ xem điểm giùm cho cả nhóm vì chàng có chân trong ban giám khảo kỳ thi đó. Bó hoa đỏ thắm đầu đời kèm một dòng chữ nắn nót trang trọng: “Mong cuộc vui hôm nay của Khuê chỉ là mở đầu của những ngày vui bất tận.”
Tuổi mười tám, lòng rưng rưng, hồn chao đảo… Khuê nhớ lại hôm thi Triết, ông thày coi thi cứ nhìn mình đăm đăm rồi tủm tỉm cười và cuối giờ khi nộp bài chàng đã tự giới thiệu là Thiên, anh của Mai Trâm. Đầu óc còn rối bù vì bài vở, Khuê không tâm trí nào nghĩ ngợi lôi thôi và hôm nay, bó hoa và những lời nửa vời làm lòng nàng xao xuyến.
Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò, các bạn cuả Khuê rúc rích trêu cợt, bông đùa. Thiên cũng vui vui, lòng lâng lâng khi nghĩ đến cô bé học trò mà lần đầu tiên đã thấy quyến luyến, nhưng với khoảng cách tuổi tác quá xa, chênh nhau mười hai tuổi, chàng không khỏi ngại ngùng. Chàng đã lái xe qua nhà Khuê nhiều lần mà rụt rè không dám nhấn chuông cửa. Thẫn thờ sang nhà người bạn gần đấy ngồi chơi rồi lại đi ngang và cuối cùng cũng chỉ dám ghé vào quán ăn xế cửa nhà nàng ngồi nhìn vọng lên sân thượng trên cao mà tưởng nhớ. Cứ như thế thời gian trôi… Khuê thi đậu vào trường Dược, vui với khung cảnh mới, lại tung tăng chân sáo. Tuổi trẻ dễ nhớ, mau quên và hình ảnh anh giáo phai mờ dần trong ký ức.
Tuổi sinh viên hoa mộng, quanh năm ngoài giờ đến giảng đường và những giờ đi làm thực tập, các nàng con gái vẫn rong chơi, vẫn rủ nhau lang thang bát phố, lái xe chầm chậm trên những con đường đẹp như Tú Xương, Lê Qúy Đôn hoặc những con đường ngập lá me bay như Trần Quý Cáp. Chiều mát tung tăng bơi lội ở hồ bơi hoặc đến nhà nhau ngồi tâm sự vụn. Kể cho nhau chuyện chàng nọ, chàng kia… Để rồi đến mùa thi vùi đầu vào sách vở, đóng cửa học đến xanh xao, vàng vọt, nhan sắc tả tơi.
Khuê là chị lớn trong một gia đình đông con, đặc biệt là có một bầy con gái. Cha mẹ Khuê còn trẻ nên gần gũi các con và đầu óc không thủ cựu. Mẹ lo chăn dắt, dạy bảo con gái về công dung ngôn hạnh, không tiếc tiền sắm sửa dụng cụ bếp núc để các con tha hồ tập tành nấu nướng, vẽ vời, làm bánh trái. Phòng khách lúc nào cũng gọn ghẽ với chiếc đèn chùm trên trần toả ánh sáng ấm áp, bộ ghế sa lông bọc vải đỏ sẫm, một bộ máy quay đĩa và chiếc máy cassette ngay góc phòng, trên bức tường màu xanh ngọc mấy con hạc trắng múa lượn trên nền đen của bức tranh sơn mài lớn. Sau khi đã vào đại học, cha mẹ Khuê không cấm các con có bạn trai nhưng phải mời về nhà đàng hoàng và tuyệt đối không được hẹn hò lén lút. Buổi tối mẹ thường chui vào giường các con thủ thỉ tâm tình, nhắc nhở con không được đi đâu chỉ có hai người và không được đến nơi vắng vẻ!
Một lần tưởng như là đã gặp tình yêu. Khuê tình cờ gặp Hiếu ở chợ hoa và mùng hai Tết, Hiếu xuất hiện ở ngưỡng cửa với phong bao đỏ lì xì. Khuê đã xiêu lòng vì giọng nói Bắc Kỳ, ánh mắt tha thiết và những cử chỉ ngọt ngào của Hiếu, tưởng như bơi lội trong vùng trời bát ngát yêu thương. Khuê từ chối hết những người giới thiệu, những người tìm đến làm quen và lạnh lùng với những cơ hội mà dưới mắt mẹ đó là những bến bờ hạnh phúc. Khuê tưởng như mình đã gặp đối tượng, nhưng người ấy đã không hiểu những trân quý Khuê dành cho chàng và có những điều xảy ra khiến Khuê nhìn lại để thấy rằng Hiếu không phải là người nàng đang tìm kiếm… rồi sau một buổi đi nghe nhạc ở phòng trà “Đêm Màu Hồng” của sinh nhật hai mươi bốn, tiếng hát nỉ non của Thái Thanh với “Nghìn Trùng Xa Cách”, Khuê đã quyết định chấm dứt. Thần tượng rớt xuống thật bẽ bàng. Thật ra cũng chẳng có gì để trách Hiếu, hai người chỉ ngồi chuyện trò trong phòng khách, chưa một lần sàm sỡ, ngay cả chưa một lần nắm lấy tay nhau. Tuổi trẻ ngây thơ, mơ mộng khiến nàng đã ngu ngơ cảm động trước những lời nói ngọt ngào, ánh mắt thiết tha, cử chỉ trìu mến mà nàng tưởng chỉ dành cho riêng mình. Sự thật đã không như Khuê nghĩ.  Mới đầu bạn bè đưa chuyện đến tai, sau đó những chứng cớ khám phá của chính nàng khiến Khuê càng thêm cương quyết tránh thật xa.
Khuê đang ở cuối năm thứ tư, còn hơn năm nữa là ra trường, bài vở chất chồng khiến Khuê mệt nhoài. Thỉnh thoảng gặp Hiếu ở hồ bơi, vẫn nói chuyện nhưng với tâm trạng khác. Khuê tự soi lòng mình, thấy tâm hồn thật thanh thản. Khó và khổ ở giai đoạn lửng lơ. Giờ đây quyết định rồi thì coi nhau như bạn. Các bạn bè cũng ngạc nhiên về sự dứt khoát, minh bạch của Khuê và lại tiếp tục đùa giỡn: “Thôi, bây giờ mày bằng lòng làm chị của tao đi…”
Những buổi tiệc tất niên trường Y, trường Dược, cũng có những cái đuôi theo Khuê. Vài lần đi phù dâu cũng có chàng phù rể theo sau bén gót. Sao lòng nàng dửng dưng, không mảy may rung động. Nàng Dược, chàng Y, đẹp đôi quá còn muốn gì nữa. Khuê tự hỏi mình tại sao và nàng cũng không hiểu nổi chính nàng. Có thể ánh mắt chưa đủ đắm say. Có thể người đó tự tin quá, coi như chấm ai thì cô nàng đó trúng số. Có thể lối tán tỉnh không hợp với Khuê, không có sự nâng niu, trân quý. Có thể những đối tượng đó chưa đúng hình ảnh chàng của nàng. Chưa đúng con người của định mệnh.
Các bà mối cũng mon men đến với mẹ Khuê nhưng lại kể thêm là chủ tiệm vàng nọ, chủ hãng xuất nhập cảng kia ra giá hễ được chàng rể bác sĩ thì hồi môn vài triệu và nhà cửa, xe pháo, phòng mạch… nhạc gia sẽ lo hết. Khuê phì cười và nói với mẹ rằng cho các chàng đó đi mà ẵm của hồi môn. Những cuộc hôn nhân cân đo, đong đếm như vậy liệu có bền vững không!
Một buổi chiều Thứ Bảy sau tuần lễ thi thực tập, Khuê đến đón Trâm đi dạo phố. Dù hai người hai phân khoa khác nhau nhưng Khuê và Trâm vẫn thân như hồi trung học.
– Anh Thiên hỏi thăm mi hoài.
– ?
– Anh bị động viên, đi lính mấy năm, mới được biệt phái đi dạy học lại.
– Vậy à.
Chợt mưa ào xuống, mưa rào của miền Nam, mưa nặng hạt.
– Nhà anh Thiên ở đây này, mi dám vào không?
Bản tính ương ngạnh của con bé cứng đầu:
– Dám? Sao không dám!
Thiên không ngờ hai cô gái ướt lướt thướt xuất hiện ngay ngưỡng cửa, vội lấy khăn cho các nàng lau tóc và châm lại bình trà.
– Chiều Thứ Bảy anh không đi chơi à?
Trâm hỏi:
– Anh đang sửa soạn bài vở vì sắp nhận dạy thêm ở một trường tư. Cô Khuê bao giờ mở tiệm thuốc đây?
Trời ơi, lại cái giọng Bắc Kỳ nhưng hình như giọng chàng mạnh mẽ hơn, trầm ấm hơn. Khuê vân vê tà áo:
– Thưa anh, em còn hơn năm nữa mới ra trường. Anh vẫn khoẻ?
Đã lâu không gặp, có thể sau mấy năm chàng đi lính, có thể cặp mắt của thiếu nữ hăm bốn nhìn khác cái nhìn của con bé mười tám, chàng trông rắn rỏi, mạnh mẽ, đầy nam tính và… không thấy già. Trời càng lúc càng mưa nặng hạt hơn như giữ chân hai người con gái. Lối nói chuyện ngọt ngào và thật thà như đếm. Có những chuyện không ai khảo lại cứ ngồi mà khai. Khuê ngồi trầm ngâm mặc cho hai anh em Trâm chuyện trò.
Rồi trời cũng quang, mây cũng tạnh, cũng đến lúc phải ra về.
– Cô Khuê cho phép tôi thỉnh thoảng ghé thăm được không?
Ngay chiều hôm sau chàng đã quần áo tề chỉnh bấm chuông cửa với bó hoa, hộp kẹo và một túi nhỏ có mấy cục xí mụi. Hoa cho chị, kẹo cho các em và xí mụi để nhắc cô học trò dám ngang nhiên nhấm nháp ô mai trong phòng thi làm ông thày chảy nước miếng.
Từ đó gần như mỗi ngày chàng đến, ngày nào cũng có kẹo có bánh. Hoa vừa héo là có hoa tươi, cho đến gần ngày thi thì theo thông lệ nàng đóng cửa, tọa thiền.
Không được phép vào nhà, chàng lang thang trước cửa và trên lầu cao nhìn xuống, mỗi ngày chiếc vespa qua lại đôi ba lần.
Đêm đến, khi đi ngủ Khuê hỏi cái đình màn: “Có phải chàng là nửa kia của ta không?”
Vừa thi xong, chưa đợi kết qủa, Khuê quăng ngay sách vở lên Đà Lạt nghỉ hè. Ngồi một mình bên gốc thông già Khuê băn khoăn tự hỏi lòng mình phải chăng đây thật sự là tình yêu, hay chỉ là một sự lấp chỗ trống vắng của con tim khi vừa chấm dứt với Hiếu. Nếu vậy thì quả là bất công cho Thiên. Luẩn quẩn, loanh quanh trên đồi vắng và Khuê thấy nhớ Thiên thật nhiều. Mỗi buổi tối ngồi cời than trong chiếc lò sưởi, đầu óc lại mông lung, phải chăng hai con sông sẽ nhập lại chung dòng, có phải vùng ngực bình yên mình chờ đợi, có phải vòng tay rắn chắc ấy sẽ che chở cho nhau suốt cuộc đời.
Trong khi đó Thiên ra Huế chấm thi. Ngoài giờ làm việc chàng lên núi Ngự Bình, ra bờ sông Hương, lên chuà Thiên Mụ, chỗ nào chàng cũng thấy hình dáng của Khuê, khuôn mặt của Khuê, nỗi nhớ nhung khiến chàng mong ngày chấm thi mau hết để quay về.
Ngày lại ngày, vẫn chỉ ngồi đối diện nhau trong phòng khách nhưng câu chuyện dễ dàng, cởi mở hơn, thân thiện hơn cho đến cái ngày trọng đại của đời Khuê, Thiên đã quỳ xuống ngỏ lời cầu hôn. Nước mắt lăn dài trên má người thiếu nữ, chuyện tưởng như trong tiểu thuyết đã xảy ra, Khuê không trả lời trực tiếp mà hỏi lại rằng:
– Anh có yêu em thật không? Có suốt đời lo lắng, bao bọc em không?
Từng câu hỏi tiếp theo câu hỏi và cuối cùng hai bàn tay siết chặt hai bàn tay, một rung động nhẹ nhàng, một luồng điện êm ả. Thiên kể lại cho Khuê những lao đao từ ngày gặp Khuê, Thiên không thể quên mà không dám lại gần. Những lúc tưởng như sắp mất người yêu lòng chàng quặn đau, mặc cảm một anh giáo, đi lính ra trường với chức vụ chuẩn uý quèn, Thiên thấy Khuê như thật xa, thật cao tầm tay với.
– Sao hồi đó anh không đến chơi?
– Anh đến để bị đá ra đường à?
– Em tệ vậy sao? Thế sao bây giờ anh lại đến?
– Ờ như định mệnh đẩy đưa, anh uống thuốc liều, không gì cản trở anh được nữa.
 
                                                                    ***
– Bà uống thuốc buổi sáng chưa?
Tiếng Thiên lôi Khuê về thực tại.
– Thấy Ông ngủ ngon quá nên Bà không nỡ đánh thức Ông.
Gọi nhau từ tiếng Anh, Em đến Bố, Mẹ rồi bây giờ quen xưng hô Ông với Bà theo lũ trẻ.
– Trời đẹp quá, Bà mặc thêm áo ấm, mình đi bộ đi!
Trên con đường nhỏ dành cho khách bộ hành, một bên là đồi cỏ xanh một bên là rặng hoa đào, ông già tóc bạc trông còn tráng kiện và lưng còn thẳng, người đàn bà đi bên cạnh dáng đi chậm chạp. Ông khẽ nắm tay bà, tay trong tay vẫn ấm và hai người thong dong, khoan thai đi bên nhau trong buổi sáng muà xuân, nắng vàng đẹp, gió nhẹ hây hây, hoa reo vui, lá reo vui trong không gian thật êm đềm. Tiếng chim ríu rít trên cành, nhìn lên bầu trời xanh trong, nhìn sang khuôn mặt thanh thản của Thiên, Khuê cảm tạ Phật Trời đã cho Khuê một lựa chọn đúng, cho Khuê một nương tựa bình yên suốt cuộc đời.
Mùa xuân 2010
ĐD
BỐ CỦA CÁC CON TÔI
Đỗ Dung
Chả hiểu cái duyên tiền định ra sao mà tôi lại gật đầu khi chàng ngỏ lời hỏi tôi làm vợ.
Chàng là dân Chu Văn An Hà Nội, từ thời xa xưa, từ khi trường còn tọa lạc ở phố Hàng Cót. Chàng theo nghề giáo lại hơn tôi một con giáp nên tôi thường gọi chàng là Anh Giáo Già.
Tôi là dân Trưng Vương, lại là tay ăn quà có hạng; chàng, con nhà đứng đắn nghiêm túc, chẳng bao giờ ăn ngoài đường, ngay cả ở nhà cũng rất ít khi ăn vặt. Dân TV thì nổi tiếng hay lê la quà chợ, thoạt đầu đi theo tôi chàng còn nhìn trước, ngó sau vì sợ gặp học trò, vài lần quen nết thế là đi chơi khát nước là ghé xe đậu đỏ đầu đường.  Bánh cuốn Tây Hồ Dakao, tai heo mắm nêm ở chợ Vườn Chuối, bún ốc trong nhà lồng chợ Bến Thành... chàng cũng bị tôi kéo đi, cũng ngồi xuống xơi tuốt. Có hỏi thì chàng nói cũng hơi ngán gặp người quen nhưng sợ mất vợ đành phải liều và sau thấy cũng thú vị càn khôn.
Khi chúng tôi sanh thằng con trai, ai nhìn cũng khen thằng bé khỏe mạnh, đẹp trai và giống bố. Bà nội cháu phán ngay câu:
– Nó giống bố nhưng không bằng bố nó!
Sợ vợ buồn chàng tủm tỉm cười nói nhỏ vào tai tôi:
– Con mình sao bằng được con của cụ.
Lấy nhau hơn ba năm, chúng tôi mới được hai đứa con, con bé lớn chưa đầy ba tuổi, thằng em chưa biết bò thì Tháng Tư đem tang thương cho cả nước. Chàng cũng phải đi tù cải tạo vì cái tội là quân nhân biệt phái. Gần năm trời mới nhận được lá thư với lời nói xa xôi: “Chiều chiều sau khi lao động tốt anh nhìn về ánh đèn thành phố mà nhớ em và con vô cùng”. Cả nhà ngồi giải mã, đoán là trại tập trung không xa Sài Gòn. Khi được phép thăm nuôi thì đúng là chàng học tập ngay ở Thành Ông Năm, Hóc Môn. Anh Giáo Già thật thà như đếm. Khi gửi tiếp tế vào trại tôi có dán tờ năm chục tiền Cụ sau lưng khung ảnh polaroid của thằng con, cuộn tờ hai chục vào giấy nilon rồi nhét xuống đáy hũ mắm ruốc, viết thư căn dặn là khi nào mệt nhọc cứ đem hình con ra mà ngắm, lọ mắm ruốc ráng tiện tặn ăn để giữ sức khỏe. Thế mà chàng cứ đem hình con ra ngắm mãi đến gần ngày được phép thăm nuôi chính thức mới tìm ra chân lý.
Ngày mấy mẹ con đi thăm tù lần đầu tiên mới thảm. Chàng như bộ xương khô trong bộ đồ nhà binh cũ. Con bé cứ vuốt mặt bố mà than: “Sao bố lạ quá, bao giờ bố mới học xong?” Quay qua tôi chàng dặn: “Em cố lo làm ăn với dì Hạnh, dì Thuận mà nuôi con còn anh đã có nhà nước lo rồi” (hai cô em ở bên Mỹ) và nói nhỏ vào tai tôi “Hòm thư của anh là bảy năm không chín” ( sự thực là 7590) Sợ cơm nấu mãi không chín thì không chắc có ngày về.
Rồi cũng đến ngày được thả, năm ấy thằng con trai của chúng tôi mới lên bốn, học mẫu giáo trường Bác Ái. Thằng bé hiền lành như củ khoai, chẳng hề gây hấn với ai, chỉ quanh quẩn chơi với chị và các dì, các cậu nhỏ. Một hôm đón con về tôi thấy con bị cào cấu xước mặt mũi. Thương con xót cả ruột, sáng hôm sau khi đưa con đến trường tôi vào lớp gặp cô giáo để hỏi nguồn cơn, cô ta hứa sẽ để ý. Buổi chiều đến đón con về thấy thằng bé bị cào cấu, đấm đá nặng hơn. Không những sứt mặt mà còn bầm cả hai cánh tay. Vừa giận, vừa thương con, tôi đem con vào hỏi ngay cô giáo và bà hiệu trưởng. Hai người rối rít xin lỗi, nói là chuyện xảy ra vào giờ các cháu ngủ trưa nên họ không biết! Thỉnh thoảng lại thấy con không bị cào mặt thì cũng sưng môi!
Sau đó tôi thấy hai cha con cứ đưa nhau lên sân thượng, thằng bé lén lén nhìn mẹ, còn bố nó thì cứ nói “Em để anh dạy con”.
Ngày nào sau khi đi học về cũng thấy hai cha con ngồi thủ thỉ. Tôi thấy thằng bé không bị thương tích gì nữa nên cũng không quan tâm. Khoảng vài tuần sau, cô giáo chờ sẵn lúc tôi đến đón con thì ra nói rằng dạo này thằng bé “hung” quá, ngày nào cũng đập lộn (sao tôi không thấy dấu vết?)
Về nhà kể lại cho nhà tôi thì chàng cười gọi con ra nói: “Thôi đủ rồi nhé, từ mai con khỏi nộp nữa”.
Tra hỏi thằng bé thì nó kể là ngày nào hai bố con cũng lên sân thượng tập võ mà bố dặn không được nói với mẹ.  Mới đầu bố ngồi cho con đánh, thằng bé tha hồ đấm đá bố, sau đó bố mới dạy con cách đánh thế này, đấm thế kia... Khi thấy con nhuyễn rồi bố bắt con nộp bố mỗi ngày một mạng (!)
Tôi trách chàng tại sao lại dạy con kiểu đó thì chàng nói: “ Chuyện trẻ con phải để chính trẻ con giải quyết “ và: “ Phải cho nó tự tin vì có tự tin nó mới không sợ và không đứa nào dám đụng vào nó nữa”.
Từ đó thằng bé không còn bị bắt nạt, thấy đứa nào yếu mà bị ăn hiếp anh cu ta còn ra tay nghĩa hiệp.
Khi chàng đã thành ông ngoại, ông nội, ngày ngày phải chăn hai thằng cháu lên năm và lên bảy, một hôm hai đứa cù nhằng, cù nhầy với ông, ông bắt nằm xuống quất cho mỗi đứa ba roi quắn mông, hai thằng mếu máo vào mách bà. Ngược lại mỗi lần thành tích biểu được toàn A thì ông cho cháu làm “Boss” của ông một bữa.
Tôi cũng ngại không biết ý tứ con rể, con gái ra sao. Hỏi chúng nó thì cô con gái nói: “Chúng nó hư ông cứ đánh thoải mái, miễn là đừng đánh ngoài đường, có đứa nào mét thì ông mệt”.
Anh Giáo là dân sư phạm chính gốc, không biết chàng ta áp dụng phương pháp sư phạm nào mà chỉ thấy là “IT WORKS!”
Bây giờ đã đến tuổi về hưu chúng tôi ở nhà chăm lo các cháu, nhà tôi rất chịu khó tập thể thao, khi nhận được đĩa Suối Nguồn Tươi Trẻ chàng tập rất đều đặn không bỏ một ngày nào, chàng tập đủ năm thế, mỗi thế hai mươi mốt cái, kết quả rất khả quan. Khi một anh bạn đến chơi chuyện vãn là các nhà sư Tây Tạng hàng ngày tụng kinh theo thế xoay vòng tròn, càng xoay nhiều càng tốt, chàng thử tập lên, quay đến năm mươi cái vẫn không chóng mặt, chàng chơi luôn một trăm cái! Cứ thế quay đều cả tháng trời. Đến một hôm tự nhiên ngủ dậy thấy choáng váng, mọi vật quay vòng không phải theo chiều ngang mà quay tròn từ trên xuống dưới. Chàng hoảng quá ngưng tập xoay, uống đủ thứ thuốc. Đi Bác sĩ thì BS nói bị “pressure” trong tai. Khi tạm bớt lại đọc trên internet có phương pháp tập khí công, thế là lại ráo riết luyện công và thêm tâp thở bụng. Bệnh chóng mặt thuyên giảm nhưng đầu óc vẫn lùng bùng không như cũ.
Một ngày chàng đang mặc quần đùi ngồi dậy hai thằng cháu ngoại, thấy hơi lạnh cẳng nên đứng lên xỏ chân vào chiếc quần dài, bất ngờ chiếc ghế đổ, chàng không biết còn lên tiếng quát mắng cháu làm ồn rồi thản nhiên ngồi phịch xuống đất... Trời giáng! Hồn vía lên mây, anh con rể đến đỡ bố lên cũng xanh máu mặt. Ai dè chàng đứng lên tỉnh bơ cười khà khà thấy như kinh mạch được đả thông, hết ù tai lẫn chóng mặt. Bây giờ lái xe thoải mái chứ không e ngại như năm ngoái.
Một ông bạn nghe kể ngẫu hứng làm tặng bài thơ:
Ông Thọ ơi, ông Thọ!
Tên ông là “sống lâu”,
Còn luyện công lắm thứ,
Muốn bất tử hay sao?
Luyện xong Hiệp Khí Đạo
Đất trời đã lao đao,
Luyện Suối Nguồn Tươi Trẻ
Khí lực càng thêm cao.
Hai mốt vòng đủ quá,
Lại ham quay ngót trăm!
Tránh sao không tẩu hoả
Đến mặt mày tối tăm!
Nếu không nhờ bàn tọa
Đỡ khối thịt của ông
Giúp kinh mạch giải tỏa,
Chắc là ông... không xong!
Chúc mừng ông thoát họa
Nhưng xin mách thêm đây:
Lần sau còn tẩu hỏa,
Phải nhớ thực hành ngay.
Nhớ ngồi phịch xuống đất
Để bà chị nắm đầu
Nhấc lên rồi thả mạnh,
Bảo đảm khoẻ lại mau!
D.H.Minh
Có ông bà tình nguyện trông nom các cháu hai cô con gái và con dâu chúng tôi thi nhau đẻ, khi chúng tôi về mới có ba đứa bé nay nhân số gia tăng, chúng tôi có cả thảy sáu cháu, ba cháu nội, ba cháu ngoại. Lợi dụng thời cơ hai đứa lại rủ mua nhà gần nhau để ông bà trông nom một thể. Thế là ông làm xe chuyên chở học sinh, chạy như đèn cù, cả ngày lo việc đưa rước. Những lời nói ngọt ngào khi xưa biến đâu mất, chỉ thấy gắt gỏng nhặng xị. Thêm tật lãng tai nên nói thì hét như còi tàu hỏa vì tưởng rằng ai cũng điếc!
Tôi có nhắc nhở:” Mắm Mắm… lại gắt gỏng như mắm” Thì chàng ngỏn ngoẻn giả lả: “Hình như là lẩu mắm, bún mắm cũng ngon lắm… hì hì hì”.
 
Đỗ Dung
 

HẠNH PHÚC TUỔI GIÀ
 
Những đêm trăng, bà có thú nhìn lên bầu trời cao để hồn mình chơi vơi theo ánh trăng, và những đêm trăng sáng vằng vặc trên nền trời nhung thẫm như thế này, bà lại nhớ ông thật nhiều.  Bà nhớ những buổi tối ngồi bên chồng ngoài hiên sau nhà, nhấm nháp phong bánh đậu xanh với tách trà sen trong không gian huyền hoặc, ngát hương đêm, hương Ngọc Lan lẫn với hương hoa Nhài, hoa Hồng thoang thoảng.
Hôm nay ngày rằm, bà đã mua trái cây và hoa.  Sau bữa cơm chiều bà nấu thêm một nồi chè sen để cúng Phật và cúng tổ tiên.  Trước khi múc chè ra chén để lên bàn thờ, bà bỏ vào nồi vài bông hoa nhài tươi mới hái, khói bốc lên thơm nhè nhẹ, mùi hoa nhài quyện với mùi hạt sen. Thắp nhang đứng trước bàn thờ chồng trong không gian yên tĩnh của căn nhà vắng lặng, bà thật sự cô đơn.  Sang năm nay bà cảm thấy yếu đi nhiều, buổi sáng ngủ dậy người nhức mỏi, uể oải.  Tuổi già thật khổ, dù bà đã cố giữ gìn sức khoẻ, tập thể thao đều đặn và ăn uống thật lành mạnh.  Một hôm, đang lúi húi làm vườn bà choáng váng rồi ngất đi, khi tỉnh dậy bà tự gọi 911 rồi gọi báo cho các con.  An, cô con gái sợ quá, tha thiết mời mẹ về ở chung:
-      Mẹ ơi, hai cháu lớn rồi, thằng Cu Tý đã lên bảy, bé Cún đã lên năm, sắp đi học Mẫu giáo, mẹ không phải bận rộn với các cháu nhiều, mẹ dọn về ở với chúng con, mẹ nhé.  Mẹ ở một mình con không yên tâm đâu, như bữa nay nè, mẹ thấy nguy hiểm không?
Bà không biết thời gian còn lại của mình là bao lâu, một tháng, một năm, năm năm, hay mười năm, hoặc lâu hơn thế nữa.  Con gái thương mẹ nhưng còn anh chồng, liệu chúng nó có thể hy sinh những sự riêng tư của gia đình nhỏ để đón bà về.  Còn gia đình nhà chồng nó nữa, hai ông bà bên đó cũng già.  Chúng không mời cha mẹ chồng mà lại đón mẹ vợ về ở chung thì liệu họ có suy nghĩ, có buồn không.
Đêm thật khuya bà vẫn thao thức, trằn trọc.  Ngày ông mới mất bà cũng dự tính thu xếp về ở với các con.  Không biết là vô tình hay cố ý, trong lúc trò chuyện tại nhà bà, cô con dâu đã tuyên bố là ở bên này sống chung với cha mẹ già là chuyện khôi hài, gia đình chỉ gồm có cha mẹ và các con, ông bà là khách, đến chơi ít ngày rồi về hay là chỗ để thỉnh thoảng cho chúng gửi con.  Chúng nó thản nhiên nói chuyện, cười đùa với nhau, diễu cợt những cảnh chung đụng trong nhà, phê bình hoàn cảnh nhà này, nhà kia khóc dở, mếu dở vì có cha mẹ già ở chung.
Biết ý tuổi trẻ như vậy bà đành lủi thủi trong căn nhà vắng, một mình bà nên nhà càng rộng mênh mông.  Hàng ngày bà đi dạo quanh vùng, về nhà đọc sách, xem TV, may vá lặt vặt, soạn lại hình ảnh của gia đình, sắp xếp thứ tự dán vào album.  Rảnh rỗi bà ra chăm chút mảnh vườn mà ông bà đã bỏ bao công sức trồng trọt, tưới bón.  Thỉnh thoảng nhớ các cháu thì bà sang nhà chúng nó chơi hay điện thoại nhắn bố mẹ nó đưa cháu sang cho bà.  Cuộc sống của bà tương đối thảnh thơi nhưng bước sang năm nay bà thấy yếu đi nhiều và khi đi ngủ hay có những cơn ác mộng, giật mình thảng thốt trong đêm.
Bà gác tay lên trán nghĩ về lời đề nghị của cô con gái, hay là bà thu xếp bán nhà, chia tiền đều cho các con rồi về ở với gia đình nó.  Bà nghĩ đến nhà của vợ chồng An, căn nhà có ba phòng vừa vặn cho gia đình hai vợ chồng với hai đứa con.  Nếu bà về chiếm hữu một phòng, hai anh em phải dồn vào một phòng, các cháu mỗi ngày mỗi lớn nên cũng bất tiện.  Sân sau bố mẹ nó tráng xi măng hết cho các con chơi và cho dễ quét dọn, chỗ nào cho bà trồng cây...  Không ổn rồi, bà lại trăn trở...  Hay nói chúng nó bán nhà đi, về ở với bà.  Căn nhà này ông bà mua đã hơn hai chục năm, không còn nợ nần gì cả.  Hai đứa con của bà đã sống và lớn lên ở đây.  Trên lầu có ba phòng ngủ và một phòng đọc sách với dãy kệ lớn bao quanh.  Dưới nhà có một phòng ngủ rộng với nhà tắm riêng bên trong dành cho khách.  Bà sẽ dọn xuống dưới nhà, để phòng ngủ chính và hai phòng trên lầu cho gia đình nó.  Ờ nhỉ, như thế có đẹp đẽ và tiện lợi hơn không.  Bà suy nghĩ rồi sắp xếp, sắp xếp... mong trời mau sáng để gọi điện thoại bàn với con gái.  Cu Tý và bé Cún sẽ ở phòng của Hoà, An ngày xưa, bà sẽ được ôm con bé Cún cả ngày, kèm cu Tý học như đã kèm bác Hòa của nó, bà sẽ dạy Cún may vá, nấu nướng, bà sẽ rủ nó ra vườn hái hoa và hai bà cháu cùng trưng bày phòng khách, phòng ăn.  Bà có thì giờ chơi với cháu mà không phải lo đi làm như ngày xưa, có những lúc vì bận rộn công việc bà bỏ bê mẹ nó.  Cứ như thế bà chìm dần vào giấc ngủ êm ả, phơi phới mộng đẹp.
 
xxx
 Đúng theo như sự mong ước của bà, gia đình An đã dọn về ở chung với mẹ gần một năm rồi, Huy chồng của An lại khéo tay và chịu khó, chàng đã bắc cho mẹ giàn cây bọc hai bên hông nhà, một bên bà trồng hoa, bông giấy tím đã trèo lên đến nóc, tiếp nối là giàn Tigon với những chùm hoa chúm chím những nụ tim hồng.  Phía bên kia là vườn rau, bầu, bí, dưa leo, khổ qua chen chúc leo trên giàn và trái thòng xuống trông thật vui mắt.  Dưới đất sát hàng rào, Huy đóng những thùng hình chữ nhật làm bồn cho mẹ trồng rau thơm; mỗi ô một loại, kinh giới, tía tô, húng quế, ngò gai, rau răm, rau dấp, xả, ớt... chả thiếu thứ rau thơm, gia vị nào.  Vườn sau bà vẫn giữ nguyên, những cây Hồng, Đào, Mơ, Mận đã thành những cây lão, hàng năm ra biết bao nhiêu trái.
Căn nhà vợ chồng An để cho thuê, mỗi tháng thu nhập thêm gần ba ngàn.  Ngày mới dọn về An đề nghị đưa mẹ tiền nhà, bà nhẹ nhàng nói:
-      Vì thương mẹ các con về đây, mẹ rất vui.  Nhà mẹ cũng như nhà con, mẹ không còn nợ nhà, các con để dành tiền đó lo cho các cháu.
-      Vậy mẹ cho chúng con gửi mẹ tiền chợ.
-      Mẹ không nhận trách nhiệm chợ búa cơm nước hàng ngày.  Các con có thể mua thêm tủ lạnh để ngoài nhà xe, cất những đồ ăn riêng, khi tiện thì mẹ nấu cả nhà cùng ăn, khi mẹ bận thì các con tự lo lấy.
Tuy nói thế nhưng gần như ngày nào bà cũng nấu sẵn bữa cơm chiều ngon lành, cả nhà quây quần ăn uống vui vẻ.
Hơn năm năm sống thui thủi một mình, nhà có tiếng trẻ thơ như ấm áp hẳn lên.
Buổi sáng hai đứa bé ríu rít:
-      Thưa bà ngoại con đi học!
Buổi chiều:
-      Bà ngoại ơi, con đói bụng!
Bà vui vẻ hầu cháu.
Và cuối tuần thì:
-      Bà ngoại ơi, cho con “ngủ bà”, bà kể chuyện con nghe.
Hai đứa rúc hai bên nghe bà kể chuyện Phạm Công-Cúc Hoa, chuyện Thạch Sanh-Lý Thông, chuyện Thánh Gióng...
Hạnh phúc sao khi nhà có già, có trẻ, có ông bà, cha mẹ, con cái quây quần bên nhau như hình ảnh tuổi thơ của bà ngày xưa...  Bà nhớ bà nội, cha mẹ, anh chị em và ông chồng yêu quý của bà thật nhiều.  Bà thầm cảm tạ Trời Phật đưa đến cho bà một giải pháp tốt đẹp.  Bà được ở lại căn nhà cũ với bao kỷ niệm, được ôm cháu hít hà.  Vợ chồng Huy đỡ tốn kém lại yên tâm đi làm vì các con đi học về có bà săn sóc.  Buổi chiều có sẵn bữa cơm ngon lành, bổ dưỡng.  Buổi tối vợ chồng con cái có nhiều thì giờ với nhau hơn.  Nếu bà dọn về ở với con thì chưa chắc được tốt đẹp như thế vì nhà cha mẹ là nhà của con, nhà của con không phải là nhà của cha mẹ.  Tiền bạc dành dụm của bà, bà tiêu xài cho con cháu vì trước sau gì khi bà nhắm mắt xuôi tay cũng của chúng nó mà thôi.
Trăng tròn xoe treo trên tấm thảm nhung trên cao. Như thói quen, bà ngồi bên cửa sổ nhìn ra mảnh vườn sau, cây cối êm ả, loang loáng dưới ánh trăng thanh.  Hôm nay Rằm Tháng Chạp, chỉ còn hai tuần nữa là Tết, bà sẽ sửa soạn một cái Tết truyền thống cho các cháu của bà, bà sẽ gói bánh chưng, gói vài cặp cỡ trung đủ để nhà thơm mùi bánh khi nồi bánh sôi sùng sục trên bếp; bà sên vài món mứt như mứt dừa, mứt sen; kho một nồi thịt ăn với dưa giá. Hai đứa bé lụng thụng trong áo dài khăn đóng, đón Giao Thừa với bà và cha mẹ. Không gian đượm mùi Tết trong ngôi nhà đầy hoa với những bàn thờ nhang thơm ngát, đèn nến lung linh và mâm ngũ qủa tốt tươi.
Đỗ Dung


 
                   NẮNG NGỌT NGÀO
Đỗ Dung
 
 
1.
Bữa tiệc thật vui, mọi người xúm xít chúc tụng, thỉnh thoảng có tiếng điện thoại reo, lại thêm lời chúc mừng của những người bạn ở xa. Hôm nay sinh nhật Diễm, một người đàn bà trên sáu mươi tuổi! Nàng ngồi giữa đám bạn bè, tưởng như ngày nào, ríu rít như lũ học trò của thời Trưng Vương áo trắng. Vẫn những giọng nói bỡn cợt, bông đùa, vẫn những lời trêu ghẹo, nghịch ngợm… Tạm quên đi những hệ lụy, những nhục nhằn, đau khổ của kiếp nhân sinh, chỉ còn có ta, có mi, chỉ còn có con nhỏ này, con nhỏ nọ.
Rồi cuộc vui nào cũng đến lúc phải tàn, phải chia tay. Thời tiết sang Đông lạnh buốt, trăng thượng tuần treo lơ lửng trên bầu trời cao. Diễm một mình một bóng, co ro trong chiếc aó khoác trở về căn nhà nhỏ. Có tiếng thở đều vọng ra từ phòng của mẹ. Nàng rón rén về phòng mình.
– Cô đã về đấy à?
– Dạ con đây, mẹ còn thức ạ? Con tưởng mẹ đã ngủ say.
– Nào đã ngủ được đâu. Cô đi chơi có vui không? Xem cửa ngõ cẩn thận rồi đi ngủ đi!
Thay quần áo xong, Diễm ra đứng tì tay bên thành cửa sổ, nhìn lên trời đêm xanh thẫm, nghĩ đến mẹ già ở phòng bên, nghĩ đến mình, nghĩ đến thời gian trôi… Nàng thương mẹ, thương mình xót xa. Là con thứ trong một gia đình đông anh em, lẽ ra người hủ hỉ bên mẹ không phải là nàng, nhưng như có sợi dây ràng buộc vô hình nên bây giờ trong căn nhà nhỏ này có hai người đàn bà cô đơn chung sống.
Mẹ Diễm sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, nho phong, nên nuôi dạy các con theo nền nếp cổ xưa. Cụ muốn các con của cụ lớn lên, sống như những hình ảnh cụ đã dựng xây, ôm ấp. Nhưng theo thời gian, những người con của cụ lần lượt trưởng thành, tách rời vòng tay của cụ để tạo lập những gia đình nhỏ riêng. Cụ có dâu, có rể nhưng cụ vẫn coi con trai, con gái của cụ như những đứa nhỏ của thời thơ ấu mà cụ nâng niu, đùm bọc!
Diễm nhớ đến Huy, đến mối tình đầu của một thời con gái. Huy cho Diễm những câu nói ngọt ngào, những ân cần chăm sóc. Diễm đã yêu Huy, yêu say đắm, nồng nàn, yêu với mộng mơ, lãng mạn của tuổi mới lớn. Nàng tưởng tượng ra một mái ấm trong đó có Huy, có nàng và một bầy con nhỏ sống trong êm đềm, hạnh phúc. Rồi do chiến cuộc lan tràn, nên mặc dù Huy là bác sĩ vẫn bị động viên, vẫn phải theo đơn vị ra nơi địa đầu giới tuyến. Thỉnh thoảng nhận những lá thư của Huy với bao lời nói xa xôi, bóng gió, như những lời ngầm hẹn ước thủy chung, nàng sung sướng đợi chờ. Mẹ nàng tỉnh táo hơn, có những cảm nghĩ từ trái tim của người mẹ. Cụ đã khuyên nhủ, nhắc nhở con gái phải nghĩ đến tuổi thanh  xuân, con gái chỉ có một thời. Nhưng trái tim có những lý lẽ riêng của nó, nàng bình tĩnh đợi chờ và đã để vuột mất bao cơ hội có được những bến bờ bình an. Mẹ nàng thương nên giận nàng. Rồi từ giận đến ghét. Hồi đó, nàng tưởng mẹ đã ghét nàng, ghét cay, ghét đắng.
Ba mươi Tháng Tư tang tóc đau thương, Diễm theo gia đình di tản.  Mất tin tức của Huy, nàng vẫn âm thầm chờ mong. Thời gian cứ lặng lẽ trôi, nàng phải hội nhập với cuộc sống mới, trở thành cô giáo dạy lũ trẻ con đủ mọi sắc tộc. Bỗng một ngày nàng được tin Huy. Chàng cũng đã định cư ở Mỹ và… đã có vợ con. Tim nàng tan nát. Ðiều mà nàng tưởng là tình yêu đã thực sự không phải. Nàng thầm tự hỏi phải chăng nàng đã ngu muội nên quá tin vào những lời hứa hẹn bâng quơ, xa xôi, hay vì định mệnh khắt khe khiến cuộc tình của nàng nổi trôi theo vận mệnh chung của đất nước.
Rồi sau đó, ánh mắt của vài chàng trai cũng làm cho Diễm thoáng rung động, song cũng chỉ như những cơn gió thoảng qua… Cho đến một ngày Khiêm chợt đến. Chàng đang cô đơn, nàng cũng lẻ bóng. Cả hai đã ở vào lứa tuổi chững chạc, trưởng thành. Hai tâm hồn xích lại gần nhau một cách dễ dàng. Sau một đám cưới đơn giản, Diễm đã được sống trong hạnh phúc và một bé gái chào đời. Nàng bằng lòng với hạnh phúc nhỏ bé, giản dị. Nàng hầu hạ chồng con, chăm sóc cho Khiêm và bé Uyên từng miếng ăn, thức uống, từng manh quần, tấm áo. Nàng yêu người cùng nàng chung chăn gối, yêu đứa con nhỏ tha thiết. Dưới mắt mẹ nàng lại khác. Cụ nhìn ra những khuyết điểm cuả Khiêm, cụ xót xa thương con gái. Với lòng thương bao la của người mẹ, cụ nghĩ con gái cụ phải được sống trong nhung luạ, phải được o bế, cưng chiều. Cụ không muốn con cụ làm thân nô lệ. Cụ có biết đâu, đối với Diễm, được hầu hạ chồng con là điều hạnh phúc.
Chuyện nhỏ góp thành chuyện lớn, chuyện bé xé ra to. Khiêm không khôn khéo, tế nhị mà mẹ nàng lại quá cứng cỏi. Những cuộc cãi vã nho nhỏ giữa mẹ vợ và con rể bắt đầu xảy ra. Diễm biết rằng “nhân vô thập toàn”, nên những khuyết điểm nhỏ của Khiêm cũng như những khắc nghiệt của mẹ nàng đều có thể chấp nhận. Ở giữa, nàng chẳng biết phải làm sao. Nàng là người đàn bà giầu tình cảm, yếu đuối, ngược lại với tính cứng rắn của mẹ. Cụ hay nhìn vào những điều xấu để chê bai, còn nàng lại thích tìm ra những ưu điểm của người để thương, để quý. Khiêm có nóng nảy, độc đoán, không dịu dàng, mềm mỏng nhưng Diễm cảm nhận được sự lo lắng, thương yêu của chàng. Mẹ nàng không chấp nhận bất cứ ai hành hạ con mình. Cụ can thiệp vào cuộc sống của vợ chồng nàng hơi nhiều, nhưng nàng biết đó là do tấm lòng thương con của một người mẹ. Càng ngày sự xung khắc giữa mẹ và chồng càng trầm trọng, cho đến khi sự việc không thể hàn gắn, nàng phải đứng trước sự chọn lựa giữa mẹ và chồng!
Khoảng thời gian đó, Diễm như muốn phát điên, bên tình, bên hiếu. Mẹ nàng cũng già xộc hẳn đi, mặt hằn lên nét đau khổ. Khiêm quát tháo om sòm. Nhà thê lương không một tiếng cười. Con bé Uyên co rúm vì sợ hãi… Cuối cùng vợ chồng nàng phải ngồi xuống nói chuyện và đồng ý chia tay.
Mẹ Diễm đòi hỏi những điều tuyệt đối mà cõi đời này làm gì có tuyệt đối! Các anh chị em nàng đều có gia đình riêng và hạnh phúc. Mẹ nàng ở nhà con nào cũng bắt nhặt, bắt khoan. Con dâu, con rể cố gắng chiều cụ nhưng hạnh phúc gia đình nhỏ của họ quan trọng hơn, họ phải giữ gìn, bảo vệ. Cụ rơi vào nỗi cô đơn mà cụ tự tạo ra. Diễm xót thương mẹ già còm cõi nên mua nhà đón mẹ về ở chung.
Có những đêm dài cô đơn trăn trở, Diễm nhìn mình trong gương, nhìn bóng mình trên vách, cảm thấy tuổi xuân vùn vụt qua mau. Nàng cũng nhớ làn da ấm, vòng tay êm, nên càng nhớ Khiêm tha thiết. Đôi khi nàng thầm trách mẹ, vì cụ mà nàng rơi vào tình cảnh này. Nghĩ lại, nàng cũng trách luôn cả Khiêm. Sao chàng không giữ nàng lại, không cùng nàng tranh đấu. Phải chăng tình yêu của chàng không đủ mạnh, không đủ đầy như nàng tưởng. Suy cho cùng thì nàng cũng có lỗi, lỗi yếu đuối, nhu nhược và mơ hồ trong tâm thức, nàng thầm công nhận mình thương mẹ hơn và coi tình yêu của mẹ là một thứ tình yêu bất diệt và chắc chắn. Ðã có những lúc nàng bắt gặp ánh mắt ái ngại của mẹ khi mẹ thấy nàng lủi thủi và đôi khi nàng còn nghe cả tiếng thở dài của mẹ.
Mấy năm đầu sau khi chia tay với Khiêm, Diễm sống lặng lẽ, câm nín. Chỉ cuối tuần nàng mới về với Khiêm và Uyên, dành cả tuần lo cho mẹ. Cụ càng già càng khó tính và khắt khe hơn. Một bầy chín người con, cả trai lẫn gái, đều thành đạt, đều là những người con có hiếu. Vậy mà cụ vẫn không vui. Bao giờ cụ cũng cho là Diễm hợp với cụ nhất, nên cụ chỉ có thể ở được với nàng. Không hiểu sao cụ lại rất ghét Khiêm, ghét thậm tệ, đến nỗi chàng không dám ghé thăm và khi đến với Khiêm nàng phải lén lút, vụng trộm… Nếu mỗi con người sinh ra đời dưới một vì sao, thì không biết nàng sinh ra dưới vì sao nào. Nàng đã hy sinh hạnh phúc gia đình nhỏ của nàng vì muốn đem lại niềm vui cho mẹ lúc cuối đời. Nếu mẹ vẫn không vui thì sự hy sinh của nàng thành ra vô nghĩa. Khiêm dự tính về hưu sẽ sống ở Việt Nam, Uyên đã lớn, rồi cũng có gia đình riêng. Còn Diễm, nàng vẫn… chơ vơ. Nàng cầu mong mẹ khỏe mạnh, vui sống để nàng còn có nơi chốn trở về.
Đêm thật sâu, Diễm kéo tấm màn che cửa sổ, bước vào giường, tắt đèn và cuộn mình trong chăn ấm. Nàng nghĩ đến bữa tiệc đã qua, nghĩ đến những người bạn dễ thương, những chương trình mà các bạn đã sắp xếp cho nàng khi nghỉ hưu. Những giọt nước mắt đã khô và nàng lại mỉm cười…
2.
Chỉ còn hai tuần nữa là Tết. Trời cuối Đông, gió bớt lạnh và nắng đã hanh vàng, nhẹ nhàng xua đi màu xám ảm đạm. Khoác lên mình chiếc áo len mỏng, Diễm ra khu vườn nhỏ, vươn vai thở hít khí trời. Giàn nho trơ những cành khô như đang thoi thóp đợi hồi sinh, chậu quỳnh lá xanh mướt đang say sưa uống từng giọt nắng và những khóm cúc vàng, tím đã hé nụ, mỉm cười... Theo thường lệ mỗi sáng Thứ Bẩy, từ tinh mơ Diễm và các bạn đã ríu rít gọi nhau để cùng ra công viên đi bộ quanh hồ hoặc ra biển đi dọc theo bãi cát. Sáng nay, vì Diễm mới trở về sau khi đưa mẹ sang Hoa Thịnh Ðốn thăm gia đình ông anh Cả nên chả thấy ai gọi và nàng cũng lười biếng nằm nướng đến bây giờ.
Không đi cũng thấy nhớ, không biết Vũ Dung đang làm gì, chắc lại tíu tít bên chồng con. Trong các bạn, có lẽ cô nàng là người hạnh phúc nhất, mặt luôn vui tươi, hí hởn, gần ai người ấy cũng vui lây. Hồng Tước đáng yêu, nhìn đời với cặp mắt bao dung, chuyện gi nàng cũng coi là chuyện nhỏ, luôn an ủi, vỗ về bạn bằng những lời nói chân thật, chí tình. Kim Lan dịu dàng, nhẹ nhàng với những ân cần, chu đáo rất Việt Nam. Còn Minh Phú, Lưu Định, Minh Hà, Vân Bằng, Ninh, Ly… Những người bạn quanh Diễm đã tiếp cho nàng sức sống sau cơn khủng hoảng về gia đình. Bóng hình những người bạn ở nơi xa xôi như Bướm Betty, Ngân Khánh, Đỗ Dung, Minh Châu, Vân Anh, Hồng Mai, Phương Khanh, Ngọc Bảo, Lệ Hải, Bích Hà… hiện lên trong tâm trí nàng. Từng khuôn mặt, từng khuôn mặt, với từng nét đặc biệt riêng. Nàng yêu các bạn vô cùng!
Nhóm đi bộ của Diễm có năm người: Vũ Dung, Hồng Tước, Kim Lan, Minh Phú và Diễm. Lợi dụng con số 5 nên họ tự phong là “Ngũ Long Công Chúa”. Những lúc Minh Phú bận việc không tham dự thì bộ tứ laị thành “Tứ Đại Cô Nương”. Bọn họ thân nhau còn hơn chị em ruột, chia sẻ với nhau mọi chuyện, kể cả những khắc khoải, ưu tư trong cuộc sống cũng như những niềm vui chợt đến, chợt đi… Mỗi buổi sau khi đi bộ họ kéo nhau vào “shopping mall”, rồi ghé tiệm ăn và vẫn ăn quà vặt như ngày xưa. Có những đề tài được họ đem ra bàn tán để rồi rúc ra, rúc rích cười với nhau vì những chuyện tiếu lâm hoặc ấm ức, bực mình vì sao con nhỏ bạn mình lại… ngu quá vậy!
Một hôm, Trác xuất hiện, như một tình cờ hay như một sự sắp đặt không cần biết. Chỉ biết rằng Diễm, người đàn bà đã ly dị, trên sáu mươi và chàng, một người đàn ông góa gần bảy chục, hai kẻ cùng cô đơn. Buổi gặp mặt đầu tiên cũng cho Diễm những xao xuyến. Nàng cười thầm sao mình lai bồi hồi như con gái mười tám lần đầu tiên đi hẹn với người yêu. Trác còn phong độ ở tuổi gần cổ lai hy, giọng nói ấm áp, ánh mắt trìu mến… Ngồi đối diện nhau trong tiệm ăn, Diễm tiếc thầm sao không gặp nhau mười năm về trước, khi nàng mới chia tay với Khiêm và vợ của Trác vừa qua đời.
Như đọc được tư tưởng nàng, Trác nói:
– Đời không có gì là muộn màng Diễm ạ. Quan trọng là chúng mình có hiểu nhau không và có chịu đựng được nhau không.
Ở Việt Nam Trác là bác sĩ, sang đây chàng thành nghệ sĩ. Sau khi về hưu chàng tìm vui trong những ban nhạc và cũng dạy đàn.
– Diễm có muốn học đàn không, anh sẵn sàng dạy… không công cho Diễm.
Nói xong, chàng đưa Diễm hai cây đàn Mandolin bảo cầm về, hôm nào tiện sẽ bắt đầu học. Buổi hội ngộ đầu tiên cho Diễm một thoáng bâng khuâng.
Tiếp đến là những email tìm hiểu, những điện thoại thăm dò ý tứ. Những lời nói ân cần, trìu mến làm lòng nàng như ấm lại, tự ái đàn bà được vuốt ve. Có tình yêu ở tuổi cuối đời này không? Nàng luẩn quẩn, loanh quanh tìm câu giải đáp. Cuộc đời nàng đang tạm bình yên. Nàng đã về hưu, còn Khiêm ở Việt Nam đã có vợ mới. Điều này cũng chẳng trách được khi hai người đã cùng ký tấm giấy ly hôn. Uyên đã lớn, đã ra trường và có người yêu. Diễm cũng đã quen với nếp sống chung, với những chướng ách của mẹ. Hàng ngày, hàng tuần giỡn hớt, bông đùa với các bạn Trưng Vương thuở nhỏ, bạn gần và bạn xa.
Một buổi sáng giọng Trác ở đầu dây kia, nồng ấm:
– Hôm nay trời đẹp quá, Diễm có rảnh không, cho anh mời Diễm đi chơi!
– Anh định đưa Diễm đi đâu?
– Đi chùa hay nhà thờ, chỗ nào Diễm thích. Anh muốn đến một nơi yên tĩnh cho thanh thản tâm hồn.
Qua những lần điện thoại Diễm biết chàng theo Công Giáo, còn gia đình nàng theo đạo Phật. Vì nghĩ đến Trác, nàng chọn đi nhà thờ.
Hai người quỳ lễ, thấy chàng ngước nhìn tượng chúa như đang thành kính nguyện cầu, lòng Diễm cũng nao nao.
Khi ra về chàng nhìn sâu trong mắt Diễm và hỏi:
– Trước tượng chúa Diễm nghĩ gì, cho anh biết được không?
– Lạy chúa con là người ngoại đạo, nhưng con tin có chúa ở trên cao.
– Chịu con gái Bắc kỳ, em trả lời khéo lắm!
Diễm mỉm cười và không dám hỏi lại anh nghĩ gì vì nàng rất sợ nghe chàng tâm sự:
– Con qùy lậy chúa trên trời, sao cho con lấy đuợc người con thương .
Có sự chăm sóc, để ý của người khác phái cũng làm con tim Diễm vui trở lại. Nụ cười như rạng rỡ hơn, quần áo chải chuốt hơn. Mọi việc không qua được những cặp mắt “cú vọ” của nhóm “Ngũ Long Công Chúa“và vấn đề liền được đem ra mổ xẻ tận tình:
– Em ơi, cẩn thận nghe em, đừng tin lời đường mật mà đổ thóc giống ra ăn đấy!
– Mi à, mi phải suy nghĩ cho kỹ nghe! Ở tuổi chúng mình còn chữ tình yêu viết hoa không?
– Mi phải biết làm tính cộng, tính trừ. “Positive” thì tiếp tục còn “Negative” thì liệu mà gài số dze, nghe em!
Những lúc ngồi một mình, nghĩ về những lời bàn ra, tán vào của bạn bè, Diễm lại bật cười. Ở cái tuổi “nhĩ thuận” mà vẫn cứ như những cô nữ sinh áo trắng ngày xưa nói chuyện về chàng nọ, chàng kia… Nàng chợt nghĩ đến cô Hiền, một giáo sư Trưng Vương lên xe hoa ở tuổi bảy mươi lăm, chú rể mới bát tuần đại khánh. Những lần gặp sau này, nàng thấy thầy cô rất vui vẻ. Cô tâm sự là cô chỉ cầu xin được ba năm thật Hạnh Phúc, sau đó già yếu thì sẽ nương tựa vào nhau. Cô sẵn sàng hầu thầy nếu cô còn sức khỏe. Phải chăng cô đã gặp được người yêu thật sự!
Buổi tối, mẹ Diễm không có nhà, có một mình, nàng chả thiết chuyện nấu nướng. Lấy nửa chén cơm nguội, rắc chút muối mè, nàng ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế bành, đếm từng hột cơm mà nhai. Những lúc cô đơn như thế này nàng cần một hình bóng, một bờ vai. Những khi buồn tủi nàng cũng mong có một vùng ngực bình yên để nép vào nương tựa, một vòng tay âu yếm vỗ về. Nhìn những cặp vợ chồng bền chặt đến đầu bạc răng long nàng không khỏi thèm thuồng, ganh tị. Nàng mơ ước một gia đình nhỏ, hanh phúc giản dị mà suốt đời nàng không có. Ôi buồn! Khi đọc bài viết “Ai sẽ là tôi” cuả Trần Mộng Tú, nàng lại càng thêm buồn thấm thía. Ai sẽ là “tôi”, ai sẽ là người ngồi bên giường khi nàng đau ốm. Ai sẽ là người thăm viếng khi nàng phải ở trong nhà già. Cả một viễn ảnh thê lương. Nàng bỗng nhớ đến Trần Vũ Thị Phúc, một cô bạn cùng khóa, Phúc được cải tử hoàn sinh vì tấm lòng yêu thương chân tình của Kevin, một mối tình đẹp của thế kỷ. Họ đã làm đám cưới trên giường bệnh khi cô dâu hấp hối và với mãnh lực của tình yêu, Phúc đã chiến thắng được tử thần. Kevin đã bỏ tất cả, danh vọng, sự nghiệp, tiền bạc để chăm sóc Phúc. Đổi lại, Kevin được gì? Đó chẳng là TÌNH YÊU viết hoa sao?
Tình yêu là gì, phải chăng là một sự cho đi và nhận lại, là hai người tri kỷ, là hai người tin cậy nhau, thông cảm nhau, có thể chia sẻ chuyện buồn vui, cũng như nâng đỡ, an ủi nhau khi cần… Có thể đó là những ý tưởng lãng mạn, còn trong thực tế, nếu sống chung thì sao. Phải đối đầu với biết bao nhiêu vấn nạn: Bệnh hoạn đau yếu của tuổi già. Một ngày là nghĩa nhưng chưa biết rằng ai sẽ hầu ai, đang khỏe mạnh đấy mà biết đâu một sớm, một chiều… Rồi lại con anh, con tôi… Rồi lại anh bừa bãi, tôi ở sạch.  Anh thích tiêu tiền, tôi thích cần kiệm. Tiền nào của anh, tiền nào của chung …
Như bạn ở xa đã thì thầm qua phone:
– Diễm ơi, ở tuổi chúng mình, sau bao nhiêu thăng trầm của cuộc sống, ai cũng đã có những thói quen riêng thành nếp rồi, khó mà thay đổi lắm. Mi liệu có hợp với ông ta không? Liệu ông ta có hợp với mi không? Suy nghĩ cho kỹ vì không còn thời gian để mà uốn nắn nhau đâu. Không ai có thể sửa ai được đâu. Cứng như thép hết rồi.
– Mi ơi, cứ giữ ở mức độ tình bạn lại hay hơn. Ai ở nhà nấy, lâu lâu tìm đến nhau, an ủi vỗ về khi cần thiết và thỉnh thoảng cùng nhau đi du lịch, đi chơi xa vài ngày… Như thế vẫn có một giới hạn và lúc nào cũng tương kính như tân.
– Diễm ơi, ta biết mi là người chịu thương, chịu khó, tình lụy, lụy tình, vướng vào lại khổ thôi. Lại có người để mà hầu. Mi nên nhớ còn Cụ nữa đó!
Khổ quá, Diễm không quen làm tính cộng, tính trừ, cũng không quen phân bì hơn thiệt. Nàng là người đàn bà yếu đuối. Thôi xin cứ để mặc số trời.
Mùa Xuân đến cây cối sẽ đâm chồi, nảy lộc. Chim chóc sẽ cất tiếng hoan ca… Nhưng đâu đây lại văng vẳng tiếng ai đang hát:
– Ta quen nhau mùa Thu, ta thương nhau mùa Đông, ta yêu nhau mùa Xuân để rồi tàn theo mùa Xuân...
Chả ai biết được ngày mai! Trăng rằm sáng vằng vặc đang dịu dàng len qua cửa sổ. Lòng Diễm có thanh thản không mà nghe như mình đã thở dài. Hai cây đàn ngoan ngoãn nép mình trong góc phòng như đang nhìn nàng tha thiết... Sao nàng vẫn lủi thủi cô đơn!
3.
Những lời tâm tình qua điện thoại vẫn dùng dằng như thể không bao giờ chấm dứt:
– Thôi, khuya quá rồi, anh đi nghỉ kẻo mệt.
– Ồ… Xin lỗi em, đã khuya quá. Mai anh sẽ gọi em. Chúc em ngủ thật ngon. Bye!
– Dạ… Em cũng chúc anh ngủ ngon.
Giọng Trác dịu dàng còn như bịn rịn, chưa muốn rời. Buông điện thoại, lòng Diễm như chùng xuống, mơ mơ, say say. Nàng lạ lẫm với chính nàng. Nằm vùi mình trong chăn ấm, đầu óc miên man, bềnh bồng. Mới mấy tháng nay thôi, nàng như con người khác, không còn là nàng của những ngày xưa cũ nữa. Từ khi chia tay với Khiêm, Diễm vẫn giữ một tấm lòng chung thủy. Sự đổ vỡ của họ không phải tại họ hết yêu thương nhau, nên nàng vẫn hy vọng một ngày đoàn tụ và dù sao Khiêm cũng là cha của con gái Diễm. Khi nghe tin Khiêm đã về Việt Nam, đã có vợ mới, lòng nàng đau như dao cắt. Không trách được Khiêm vì hai người đã đồng ý ly dị. Trong tình trường, Diễm luôn là kẻ khờ khạo, nhưng thôi thà để cho người phụ ta. Tủi thân, tủi phận đấy nhưng lòng Diễm như băng giá. Nàng cố gắng gạt bỏ những hình ảnh cũ, những kỷ niệm xưa để tìm sự thanh thản cho tâm hồn. Nàng tự nhủ rằng cuộc đời mình coi như đã xong, bây giờ lo phụng dưỡng mẹ già và đợi ngày bé Uyên lập gia đình rồi sẽ tìm vui với bầy cháu ngoại.
Sự việc đẩy đưa… Sang năm nay mẹ Diễm có ý định muốn đi thăm các con, các cháu. Ở tuổi trên chín mươi, cụ còn khỏe nên muốn đi chơi một vòng, do đó cụ sẽ vắng nhà mấy tháng. Con bé Uyên mới có người yêu, đang say sưa với mối tình nồng thắm của tuổi trẻ nên cũng xao lãng với mẹ. Một mình trong căn nhà vắng, Diễm lủi thủi, cô đơn. Nhiều đêm ngước mắt nhìn những vì sao lung linh trên nền trời cao nàng không biết ngôi sao bản mệnh của mình ở đâu mà cả đời chưa một lần được hưởng hạnh phúc lâu dài. Nàng đã chấp nhận định mệnh và đã đi gần hết cuộc đời!
Về hưu… hết những lo âu phiền toái của công viêc nhưng cuộc sống thật trống trải, u buồn. May thay nhóm bạn Trưng Vương cũ tìm về với nhau. Như cá gặp nước, Diễm lại lao đầu vào công việc để tìm quên. Nàng đưa vai vác cái ngà voi cho các bạn trong những lần tụ họp, hội hè. Nhóm bạn ở gần rủ nhau đi tập tài chí, line dancing, học làm đồ gốm, sáng tạo các kiểu nữ trang và cuối tuần cùng nhau đi bộ… Tình bạn cũng an ủi, cũng cho Diễm những ấm áp trong những ngày lạnh lẽo mùa Đông và như những làn gió mát xua đi những nóng nực của mùa Hè. Các bạn nàng ai cũng có cặp, có đôi chỉ có nàng và Kim là hai người nửa đường đứt gánh. Các bạn cũng cố tìm người để gán ghép. Nàng chỉ mỉm cười và thầm nghĩ già chừng này tuổi rồi mà còn khoác gông vào cổ nữa sao. Nếu có duyên từ trẻ thì mới ráng lãnh nợ để chiu đựng nhau lúc về già chứ.
Thế rồi như có sự huyền nhiệm, buổi gặp mặt đầu tiên với Trác tâm hồn Diễm xao xuyến, bâng khuâng. Trác đề nghị dạy đàn, nàng yêu cầu cả nhóm cùng học. Trong những buổi học, những lần gặp gỡ, những ân cần săn sóc làm con tim nàng mềm đi. Trác rất đứng đắn, nghiêm trang, ít nói. Nàng cũng hiểu thêm về Trác. Cô đơn, chàng tìm vui trong những lớp dạy đàn, dạy hát cho ca đoàn ở nhà thờ, chàng chăm làm việc thiện. Chàng là người của gia đình, yêu vợ, thương con. Vợ chàng cũng là bạn cùng khóa với Diễm ở Trưng Vương, xinh đẹp, dịu dàng, chẳng may bị bạo bệnh nên vắn số. Chính những đặc tính đó của chàng khiến Diễm bồi hồi và lòng nàng chao đảo. Khác với một vài người cũng đã đến làm quen mà nàng không tin tưởng vì những lời bông lơn, cợt đùa nên nàng không mảy may rung động. Không những thế, nàng còn cảm thấy tự ái bị va chạm, tổn thương!
Rồi từng bước, từng bước nhẹ nhàng Trác và Diễm gần gũi nhau hơn, quyến luyến nhau hơn. Nghĩ về nhau thì thấy thương thương, rồi xa nhau thì thấy nhung nhớ. Nàng vẫn thường tự hỏi có còn tình yêu ở lứa tuổi này không mà sao lại nhung nhung, nhớ nhớ và nghe như đâu đây có sự êm ái, ngọt ngào…
Chị Quỳnh, làm chung sở với Diễm, góa chồng từ năm chị chưa đầy bốn mươi, chắp nối với một ông hơn chị vài tuổi khi chị mới nghỉ hưu. Chị tâm sự rằng chị đang hạnh phúc. Chồng cũ của chị chết trong trại tù cải tạo, chị chỉ có một người con trai nay đã có gia đình. Chị đã cả đời quên mình chỉ để lo lắng cho con. Con chị cũng rất hiếu thảo và thương mẹ nhưng vợ chồng nó không muốn ở chung. Nó đã nói thẳng với chị là con rất thương mẹ và con biết là mẹ cũng rất thương con. Con muốn tránh trước những chuyện có thể làm mẹ buồn. Chúng con ở riêng và nếu có chuyện gì xảy ra thì con xin thưa với mẹ trước là con sẽ về phe vợ vì mẹ thì không bao giờ bỏ con, còn vợ con có thể bỏ con được. Thoạt tiên những lời nói ấy làm chị đau đớn lắm. Cả đời chị đã hy sinh cho con, những tưởng về già có nơi nương tựa. Chị ở lại một mình trong căn nhà vắng, trống trải, trơ trọi. Đêm nằm nhiều khi giật mình vì tiếng kẹt cửa hay tiếng gỗ cựa mình. Những lúc ốm đau, uể oải, chị thật tủi thân. Chị vẫn chưa quen lối sống độc lập, cứng cỏi của những người già bản xứ. Chị đã gặp anh, bạn thân của chồng trong một tiệc cưới, vợ con anh đã chết hết trên đường vượt biển. Bạn bè cũ xúm vào gán ghép, thúc đẩy và tạo cơ hội để anh chị gần nhau, cuối cùng hai anh chị đồng ý sống chung.
– Diễm ơi, tình già có những cái đẹp của tình già, nhà ấm áp hơn, khi vui có người để kể và khi buồn có người để chia. Mình không biết mình còn ở cõi đời này bao lâu nữa. Một năm, năm năm, mười năm hoặc ngắn hơn, hay dài hơn thế? Ở một mình buồn lắm, thảm sầu lắm, em ạ.
Chị Vân bên Pháp có hai cô con gái, cũng ly dị ở tuổi hơn bốn mươi, nay hai con có gia đình riêng và chị cũng mới ở chung với ông bạn già, cũng khuyên:
– Tuổi sáu mươi bây giờ còn trẻ lắm, em không thể ngồi trong xó tối mà nhai gặm nỗi cô đơn. Vấn đề là làm sao tìm được người hiểu mình, thương mình thật tình và cùng tôn trọng nhau. Có như thế mới khắc phục được những lẩm cẩm của tuổi già, những phức tạp của đời sống. Hai đứa con gái của chị hồi bé không bao giờ dời mẹ, thấy ai đến gần tán tỉnh mẹ là khóc lóc, buổi tối ôm gối đòi ngủ chung thế mà khi lập gia đình cũng vẫn quý “privacy” hơn. Tuổi trẻ mà em, thương con nên đành thương cho trót. Khi chị sống chung với ông này các cháu mừng lắm, yên chí có người ở bên mẹ, lo lắng cho mẹ, không áy náy với mặc cảm bỏ rơi mẹ chúng nó.
Sắp đến ngày mẹ Diễm trở về, phải làm sao đây. Mẹ nào mà chẳng yêu con, mẹ nào chẳng muốn con hạnh phúc. Nhưng ở thế hệ của cụ, liệu cụ có hiểu cho không hay cụ lại cho là nàng già rồi mà không nên nết.
Mẹ Diễm cũng goá chồng ở tuổi sáu mươi, đã hơn ba mươi năm cô đơn, quạnh quẽ. Cụ là con út của một gia đình thế gia, vọng tộc, được cả nhà cưng chiều, khi lập gia đình cũng hạnh phúc ấm êm. Một bầy anh em Diễm lần lượt ra đời, như những nắm bông gà con ríu rít bên gà mẹ. Hồi tưởng lại thuở bé hình như mẹ nàng chỉ biểu lộ sự thương yêu con qua những lo lắng chu toàn về miếng cơm, manh áo, săn sóc sự học hành của các con nhưng rất ít nói lời yêu thương. Cụ răn dạy con theo lối cổ, nghiêm khắc. Chị em Diễm kính yêu nhưng… sợ. Đến tuổi trưởng thành, từng đứa, từng đứa rời vòng tay mẹ để tạo lập gia đình riêng. Cụ có cảm giác mất mát. Cụ cho dâu rể là những người đã cướp đoạt các con của cụ, những vật sở hữu của người mẹ quyền uy. Các con đã không hiểu được mẹ và mẹ thì cũng chẳng thể nói được với các con. Dâu rể là người dưng làm sao hiểu được những rắc rối phức tạp đó. Cứ thế mẹ con càng ngày càng xa cách. Các con không dám hỗn hào với mẹ nhưng từ từ lánh xa. Diễm được mẹ nuôi dạy từ bé, quen phong cách của gia đình, cũng khó nói ra những lời yêu thương. Nàng ao ước được nói với mẹ một cách dễ dàng. Mẹ có biết là con yêu thương, xót xa mẹ đến chừng nào không? Ngày xưa mẹ già, con trẻ… không thể nào hiểu được nhau, nay mẹ già và con không còn trẻ nữa, sự suy tư có thể gần nhau hơn, dễ cảm thông hơn. Mẹ ơi, con thương mẹ, con muốn những năm cuối của cuộc đời mẹ có tâm thanh thản, nhẹ nhàng. Con yêu mẹ, mẹ ơi. Diễm thầm thì nói với mình như đang ngồi bên mẹ nàng.
Nàng ao ước Trác và nàng đủ thân và tình yêu cùa hai người đủ mạnh để nàng không phải lựa chọn giữa TÌNH và HIẾU như lần trước. Nàng mong được cả hai. Liệu tình của Trác có đủ để họ cùng nhau tìm cách lấy lòng mẹ nàng không. Rồi hai người chiều cụ, làm cụ vui để cụ xóa bỏ sự lo lắng, sợ hãi mất con mà cụ lại có thêm một người thân nữa.
Cứ như thế hồn Diễm lênh đênh, chiếc máy CD đầu giường buông những ca từ mượt mà của Trịnh Công Sơn và nàng thiếp ngủ trong… “Ru mãi ngàn năm từng ngón xuân nồng… “
Buổi sáng Diễm bị đánh thức bằng tiếng chuông điện thoại mẹ nàng gọi từ miền Ðông:
– Hôm nào cô sang đây?
– Dạ hai ngày nữa mẹ ạ. Mẹ đi chơi có vui không?
– Thì… cũng vui, tôi ra phi trường đón cô nhé!
– Thôi khỏi mất công mẹ ạ, con đi cùng hai chị bạn.
– Ờ… nghe nói cô học đàn hả?
– Con với mấy chị bạn đang học Mandolin, học cho vui thôi mà.
– Ừ… thì cô cứ học cho vui.
Hai ngày nữa Diễm sang Hoa Thịnh Đốn cùng Hồng Tước và Hương Kiều Loan để ngắm hoa đào nở. Cũng nhân dịp này nàng muốn trắc nghiệm lại lòng mình, tình cảm của mình với Trác. Nghe tiếng nói của mẹ qua máy Diễm cảm nhận một sự dịu dàng, một âm hưởng ấm áp mặc dù vẫn với lối nói thường xuyên của Cụ.
Nghiệm lại nàng thấy như có sự an bài của Thượng Đế, mọi diễn biến xảy ra đều đúng thời, đúng lúc. Nàng đã gặp mấy người con cuả Trác, có tình cảm thương mến dạt dào. Con bé Uyên ríu rít: “Mẹ có “boyfriend” cho vui, con không muốn mẹ khóc hoài, mẹ vui con cũng vui…” Tuổi trẻ lớn lên ở bên này phát biểu rất hồn nhiên. Tóm lại mọị chuyện như thuận duyên. Xin cảm tạ Phật Trời, cảm tạ các Đấng Bề Trên.
Diễm dạo quanh khu vườn nhỏ, bây giờ đang là mùa Xuân, cây cối như đang hân hoan mỉm cười. Năm nay những bông hoa như to hơn, màu sắc tươi hơn. Cành đào đầy nụ, giò lan nặng trĩu vì hoa, những cây bonsai giữ những bụi nước nhỏ li ti như còn ngậm sương sớm. Nắng lung linh, gió nhè nhẹ rung rinh… Diễm như đang mơ… mơ mơ, màng màng, say… say say... Nàng như được bọc mình trong nắng, nắng vàng óng như tơ và nắng thật ngọt ngào.
Đỗ Dung
 
XUÂN XƯA
 
ĐỖ DUNG
 
 
Hàng năm, cứ tết đến, nhìn cặp bánh chưng xanh, nhìn những rộn ràng mua sắm, lòng tôi lại bâng khuâng nhớ về những ngày tháng cũ, những ngày tháng êm đềm, vui vẻ dưới mái ấm gia đình với một bầy anh chị em đông đúc, quây quần bên cha mẹ, và nhớ xót xa về bà nội tôi, bố tôi, những người đã ngàn trùng xa cách.
 
Cứ bắt đầu sang tháng chạp, trời hơi se lạnh là mẹ tôi đã lo sửa soạn sắm tết. Trước hết hai mẹ con tôi đi rảo chợ An Đông và chợ Bến Thành để mua vải, mẹ và tôi, là chị lớn của bầy em, lo cắt may cả tuần mới xong cho cả nhà, mỗi người hai bộ quần áo mới và bộ màn cho các cửa sổ và cửa ra vào. Sau ngày rằm mẹ tôi xuống chợ Cầu Ông Lãnh mua rau cải, hành về muối dưa; mấy loại củ về phơi làm dưa món; gạo, nếp, đậu, vài ống giang… sửa soạn cho nồi bánh chưng; đồ khô như nấm, bóng, miến, tôm, mực … để nấu cỗ.
 
Chúng tôi thích nhất nồi bánh chưng ngày tết. Thuở mới di cư, nhà ít người, chúng tôi còn bé nên nồi bánh nhỏ. Khi tôi lớn lên, nhân số gia tăng dần, bố tôi đặt một cái thùng tôn thật to hình khối vuông, cao cả thước để sắp bánh cho dễ. Sau tết, thùng đó được để ở gầm cầu thang, chứa các thứ đồ khô cho khỏi chuột. Sát ngày gói bánh mẹ tôi mới mua lá cho tươi.
 
Bữa ăn trưa ngày hai mươi sáu tết vừa xong là nhà tôi bắt đầu nhộn nhịp hẳn lên. Bà nội tôi chỉ huy việc gói bánh chưng. Chị Tư, người giúp việc cùng mấy chị em tôi tíu tít nghe lệnh của bà, trong khi mẹ tôi lặng lẽ ngồi chẻ lạt. Mẹ chẻ lạt rất khéo, mẹ chọn mua mấy ống giang thẳng, không già lắm, đã được ngâm nước mấy hôm cho dễ chẻ. Mẹ pha ra từng thanh, bản to bằng sợi lạt rồi cứ thế mẹ chẻ thanh giang ấy làm hai rồi lại làm hai, làm hai nữa cho đến khi tước thành sợi lạt mỏng tanh. Chả mấy chốc, mấy ống giang đã trở thành mấy bó lạt trắng phau, mềm mại.
 
Một thau nếp đã được vo để ngâm, thau đậu xanh còn nguyên vỏ ngâm nước, để ngay bên cạnh. Chúng tôi xúm vào rửa lá. Bà chia mỗi đứa một cái khăn nhỏ để rửa từng chiếc lá dong. Bà nói lá phải rửa thật sạch và lau thật khô thì gói bánh mới ngon và không bị hỏng. Lá sạch đươc cột thành từng bó để dốc lên cho róc nước. Nồi hình vuông nên rất dễ xếp bánh, chị Tư phải rửa nồi sẵn sàng và bố tôi đã xếp sẵn mấy cục gạch ngay gần bờ giếng bên hông nhà để làm ông Táo, ông xếp củi sẵn sàng theo thứ tự củi nhỏ, củi lớn để củi dễ bắt lửa chuyến đầu tiên. Khi củi cháy đều người có phận sự ngồi canh chỉ việc bỏ tiếp củi để giữ lửa cho đến khi chín bánh. Nhà con đông lại thêm tục lệ biếu tết nên mỗi năm nhà tôi gói hơn sáu chục chiếc bánh, cứ một cặp bánh kèm với một hộp trà tàu hoặc một chai rượu tây là thành một phần quà.
 
Sáng sớm hôm sau mẹ tôi đi chợ thật sớm để lấy thịt đã được đặt sẵn ở sạp thịt quen, không quên mua cho bà tai và mũi heo để bà gói giò thủ, mấy cái chân giò để hầm với măng khô. Trong khi chờ vớt gạo, đãi đậu, bà và mẹ tôi pha thit bỏ vào một thau đầy, ướp nước mắm ngon và tiêu trắng xay nhuyễn. Mũi và tai heo cũng được cạo rửa, luộc chín sẵn sàng để bà sẽ thái ra xào với nấm hương, mộc nhĩ, tiêu muối để gói giò.
 
Đậu xanh đãi vỏ xong bà rắc muối vào rồi bảo xóc đều lên trước khi bỏ vào chõ hấp. Bà chả cần phân lượng, cứ nhắm nhắm, liệu chừng, thế mà ít khi sai lạc. Sau khi đậu chín nhừ bà nói chị Tư lấy muỗng đánh đậu thật tơi rồi nắm lại thành từng cục tròn vừa cho một cái bánh, làm xong xếp cả vào một rổ lớn. Nếp vo sạch, vớt ra mấy cái rá to, bà cứ thò tay vào hũ muối bốc rồi rắc vào rá gạo và sai đứa nào ở gần xóc lên cho đều muối và ráo nước.
 
Mọi thứ sửa soạn sẵn sàng bà hối thúc mọi người làm cho nhanh để luộc bánh cho kịp vớt không để quá khuya. Thường thì phải nấu liên tục tám tiếng nhưng nồi to nên bà bắt sau khi nước sôi phải để hơn mười tiếng cho bánh chín kỹ. Ba chục cặp bánh gói xong, xếp đầy trên tấm phản gỗ, bà không quên gói mấy xâu bánh tép, những chiếc bánh chưng con con cho các cháu.
 
Bao nhiêu đầu, đuôi và cuống lá cắt ra được bỏ hết vào đáy thùng để lót, sau đó bà và mẹ tôi xếp bánh thật chặt chẽ vào thùng, khiêng lên bếp mà bố tôi đã xếp sẵn, đổ nước ngập bánh rồi nổi lửa. Bà gọi chị Tư lấy nồi măng khô đã ngâm từ mấy hôm trước rửa thật sạch, đổ đầy nước, để chèn lên mặt bánh vả một nồi nước to cũng đổ nước thật đầy để lên cạnh nồi măng.
 
Khi nước bắt đầu sôi ùng ục trong nồi bà dặn canh giờ và cứ nước hơi cạn xuống là lấy cái xoong nhỏ có cán làm gáo để múc nước trong nồi chèn đổ xuống nồi bánh rồi lại tiếp nước mới vào nồi chèn. Mùi lá, mùi bánh đã tỏa ra thơm ngát, không gian đã đượm mùi tết.
 
Chúng tôi ngồi quanh chiếc phản xem bà gói giò thủ. Mấy miếng mũi heo và gần chục cái tai đã được luộc chín mềm, bà thái mỏng hết cho vào một thau, thái mộc nhĩ và nấm hương thành sợi trộn vào, cho tiêu, muối, nước mắm và một ít tiêu còn để nguyên hột. Ướp khoảng nửa tiếng rồi cho vào chiếc chảo to, đặt lên bếp xào kỹ, còn nóng bà đổ vào xấp lá dong đã trần sơ, lau sạch, cứ thế bà vừa gói vừa nắn cho cây giò tròn đều và chắc, rồi lấy lạt buộc chặt . Thoáng một cái là xong mấy đòn giò thủ, bà buộc thành từng cặp và treo lên xà bếp.
 
Thuở chúng tôi còn bé, buổi tối ngồi canh nồi bánh chưng bà kể truyện cổ tích, có những truyện nghe đến thuộc lòng mà vẫn thích nghe bà kể đi, kể lại. Lớn lên một chút bà dạy chơi tam cúc. Bà có cỗ bài bé chả biết mua từ bao giờ, mỗi năm cứ đến tết mới giở ra chơi.
 
Sống ở quê hương mới thấy sự thiêng liêng của ngày ba mươi tết. Từ sáng, mẹ cho tháo hết màn cửa cũ xuống, quét màng nhện, lau cửa sổ, lau sàn nhà thật sạch bóng. Bố tôi lo quét dọn bàn thờ, sai trẻ con đánh bộ lư hương, chân nến bằng đồng sáng choang. Năm nào nhà tôi cũng được chú Tám, lính cũ của bố tôi nay đã về hưu, nhà ở Bình Dương có vườn cây cảnh đem biếu một cành Mai thật đẹp. Bố tôi đốt gốc cắm ngay vào cái lọ độc bình. Hoa nở tưng bừng đúng sáng mùng một. Sau khi lo xong nồi bánh chưng, tối hai mươi bảy và hai mươi tám tết nào chị em tôi cũng rủ nhau đi chợ hoa, kén mua cho được một đôi cúc đại đóa thật đẹp và hai chậu quất, quả trĩu cành. Sáng ba mươi tôi được phân công lên chợ hoa phía sau chợ An Đông mua một bó hoa Lay Ơn đỏ tươi và mấy bó huệ trắng để trưng bàn thờ.
 
Buổi chiều, ngoài đường vắng hoe, gần như không có người qua lại. Sau khi dọn dẹp, treo màn cửa mới, trang hoàng nhà xong mẹ tôi lo bầy mâm ngũ quả trên mấy bàn thờ, bà lo mâm cơm đón tổ tiên, ông bà. Thông thường cỗ phải đủ bốn món đĩa, bốn món bát, có canh bóng, miến, nấm, bí. Tôi nhớ mãi bà tôi thường nói, con gà chặt ra làm hai, nửa luộc, nửa quay, lòng mề nấu miến, cổ cánh nấu bí. Ngày xưa thật tiện tặn, có một con gà mà pha ra nhiều món thành ra nồi nước dùng phải thêm mực, thêm tôm khô, các loại củ tỉa hoa làm chân tẩy cho ngọt nước. Mâm cúng Ông Táo có cỗ mũ hàng mã và cũng xôi thịt, bánh trái. Sau khi cúng đón Táo Quân và cúng mời tổ tiên, ông bà về ăn tết với con cháu, bà tôi xoay ra lo chiếc bàn thiên.
 
Bàn thiên bày giữa sân thượng, bà tôi muốn mọi thứ phải tố hảo để tế lễ trời đất, chào đón chúa xuân, cho năm mới được nhiều may mắn, an khang, thịnh vượng. Con gà trống thiến được buộc thành hình con gà quỳ dáng đẹp, cổ thẳng, mỏ ngước lên trời. Sau khi luộc cẩn thận, con gà ngậm bông hoa tươi đặt nằm trên mâm xôi gấc. Đĩa trái cây đủ năm thứ trái và bình hoa Lay Ơn đỏ thắm. Không kể các món đặc biệt tết như bánh chưng, giò chả, mứt, hạt dưa và rượu mùi…
 
Gần đến Giao Thừa, đèn nến lung linh, Giao Thừa là lúc tống cựu, nghinh tân, lúc trời đất giao hòa, chúa Xuân về ngự trị. Bà và bố mẹ tôi mặc quần áo tề chỉnh, sẵn sàng đợi đúng mười hai giờ đêm là thành tâm khấn vái. Tôi đứng sau cảm được sự linh thiêng, ngước mặt lên trời để làn gió lành lạnh mơn man làn da. Cùng đồng loạt pháo nổ rền vang, rộn rã…Tàn một tuần nhang bà tôi lễ tạ, bố mẹ tôi chúc thọ bà, bà chúc lại bố mẹ tôi rồi bắt chúng tôi đi ngủ để sáng sớm sẽ mặc quần áo mới chúc tết và được tiền lì xì. Tôi còn ở lại sân thượng hưởng gió xuân, hít thở khí trời linh thiêng lúc trời đất giao mùa.
 
Đã hơn ba mươi năm xa quê hương, bà và bố tôi đã qua đời. Tôi vẫn nhớ về những kỷ niệm xưa, vẫn nhớ những ngày tết rộn ràng nơi ngôi nhà ấm cúng, vẫn nhớ những giây phút thiêng liêng khi tiễn năm cũ đi, đón năm mới tới nơi sân thượng yêu dấu cũ, của một thời mộng mơ, trẻ dại…
 
Đỗ Dung
                       CHÂN TRỜI TÍM


  ĐỖ DUNG
 
Hân choàng tỉnh giấc, lăn qua phía Khoa vẫn nằm. Một khoảng trống lạnh lùng. Vùi mặt vào chiếc gối cuả chồng, nàng bật khóc. Chàng mất đã hơn ba năm mà nàng vẫn thảng thốt, vẫn bàng hoàng, nhung nhớ.
 
Tung chăn, Hân khoắng chân xuống đất tìm đôi giép. Tiếng Khoa như còn văng vẳng đâu đây:
 
- Hân từ từ thôi, cứ ào ào, nhỡ có xảy ra chuyện gì thì lại khổ!
 
Chả là Hân có tật ngủ dậy là cứ phăng phăng chạy ra khỏi giường. Khoa đọc trên trang mạng thấy có những nguy hiểm cho người lớn tuổi khi hấp tấp nên luôn nhắc nhở vợ. Sống với nhau gần bốn mươi năm, dù không còn âu yếm, ngọt ngào như thuở ban sơ nhưng Khoa vẫn luôn để ý lo lắng và săn sóc Hân chu đáo.
 
Bước đến bên khung cửa kính rộng, chiếm gần hết chiều ngang của căn phòng ngủ, nối liền với bao lơn nhìn xuống phía vườn sau, Hân kéo màn để những vạt nắng chạy ùa vào nhà. Khoác chiếc áo len mỏng, nàng mở cửa bước ra ngoài. Trời hôm nay đã vào Xuân ấm áp, nắng vàng trong đẹp quá. Nàng sững người trứơc bức tranh thiên nhiên thật tuyệt vời. Thành phố nhỏ này được tạo dựng trên một thung lũng, như một lòng chảo, núi đồi chập chùng nối đuôi nhau bao bọc xung quanh. Những con đừơng quanh co uốn lựơn với hai hàng cây dọc suốt hai bên. Phóng tầm mắt ra xa, bầu trời xanh trong, vài cụm mây trắng nõn như bông lững lờ bay. Những đồi cỏ xanh mướt, khoảng chân đồi đã lấm tấm điểm những nụ hoa vàng. Chỉ một tháng nữa thôi sẽ có những vạt hoa vàng nở rộ, khúc khích cười đùa với nắng và rạp mình như chạy trốn khi có những cơn gió bay ngang.
 
Xuống nhà dưới, vào bếp sửa soạn một tách cà phê, nướng một miếng bánh croissant, nàng bê ra vườn sau, ngồi bên chiếc bàn nhỏ ngoài hiên để vừa ăn vừa sưởi nắng. Trong không gian tĩnh lặng, nàng tưởng như Khoa còn quanh đây. Nàng vẫn không tin được là chàng đã bỏ nàng ra đi vĩnh viễn. Buổi tối hôm ấy, ngày kỷ niệm 38 năm đám cưới của hai người, Khoa rủ Hân đi ăn rồi ghé vào vũ trường. Trong không khí vui tươi rộn rã, nhã nhạc vang lừng ấy và giữa sàn nhẩy lộng lẫy ấy, chàng đang ôm nàng trong vòng tay, bềnh bồng, dìu dặt theo tiếng nhạc du dương thì chàng đã gục xuống và không bao giờ tỉnh dậy. Chuyện xảy ra đột ngột đến ngỡ ngàng - "Anh bỏ em đi dễ dàng, anh bỏ em đi nhanh chóng đến vậy sao!" - Nàng đã hốt hoảng, cuống cuồng, đau khổ đến tê điếng.
Quấn chiếc khăn tang phủ phục trước bàn thờ chồng trong ngày tang lễ, nàng vẫn như người trong mơ, không tin vào sự thật bẽ bàng, nàng đớn đau đến câm nín, lạnh lùng. Thế rồi cứ lãng đãng như người mộng du cho đến khi ngón tay nàng bấm vào cái nút để ngọn lửa bùng lên. - "Không, không, Khoa ơi, anh sẽ trở về với em chứ, cuộc đời mình đã bao lần chia tay rồi mình lại về với nhau mà, phải không Khoa?” Đầu óc lùng bùng và nàng đã ngất đi trong tiếng chuông mõ, tiếng tụng kinh của vị sư già và ban hộ niệm.
 
Không bức tranh nào toàn bích, không cuộc đời nào hoàn hảo. Khoa và Hân đã có một thời xuân thì yêu nhau say đắm. Mấy năm hò hẹn với sự chấp thuận của hai gia đình, những chiều chuộng ngọt ngào, những nhung nhớ bâng khuâng, những chờ đợi xao xuyến và những giận hờn vu vơ tô điểm thời con gái đang yêu và được yêu. Khi nàng vừa tốt nghiệp DHSP, vừa đúng 22 tuổi là Khoa đón nàng lên xe hoa. Lúc ấy Khoa đã là chàng Đại Úy Hải Quân rắn rỏi, oai hùng. Lấy chồng lính thủy thời chiến nên những chuyến hải hành khiến Khoa, Hân sống kiếp vợ chồng Ngâu. Mỗi lần về phép, ngồi trên chiếc vespa, sau lưng chồng, nàng như ngửi được mùi của biển cả, mùi của chàng, mùi của tình yêu cảm nhận được từ trái tim nồng nàn yêu thương của chàng dành cho vợ. Đời người thiếu phụ trẻ đầy cảnh xum họp lại chia ly. Gặp nhau để rồi lại cách xa... Hai đứa con xinh đẹp lần lượt ra đời thì biến cố tang thương 1975 ập đến. Dù là Hải Quân nhưng chậm chân và vụng tính nên Khoa đã kẹt lại và hơn tám năm bị đầy ải trong những nơi gọi là trại cải tạo. Ở ngòai Hân đã phải một mình tần tảo nuôi dậy con thơ, lo đồ ăn tiếp tế, quà cáp thăm nuôi chồng và son sắt đợi chờ.
 
Ra trại, vượt biên đến vùng đất hứa, phải làm lại hết tất cả. Mấy năm đầu hai vợ chồng làm việc vất vả để hội nhập với đời sống mới, chăn dắt hai con ở môi trường lạ. Một ngày Khoa may mắn gặp được người quen cũ, với kinh nghiệm trong nghề hàng hải chàng được giới thiệu đi làm cho một hãng tàu buôn. Thế là lại chia ly, lại những ngày tháng mòn mỏi đợi mong.
 
Sau gần ba chục năm làm lụng cực nhọc, hai con khôn lớn, tốt nghiệp đại học và đã lập gia đình. Hòa, anh lớn đã có hai thằng con, còn An, cô em, cũng có một trai, một gái. Căn nhà hai vợ chồng Khoa đã trả hết nợ, vấn đề tài chính tạm ổn nên Khoa quyết định cùng vợ nghỉ hưu để bắt đầu hưởng thụ cuộc đời. Chàng muốn bù đắp những nhọc nhằn, thiệt thòi mà suốt đời Hân phải gánh chịu. Chàng đã đưa vợ đi du thuyền sang Hawaii ngắm bình minh, hoàng hôn trên biển cả, thăm các thắng cảnh trong vùng và ăn những trái cây ngon nhiệt đới. Mùa đông chàng mướn căn nhà nhỏ ở Lake Tahoe để hai người kề vai ngồi bên lò sưởi ngắm tuyết rơi qua cửa sổ, ngắm trăng huyền ảo trải lụa mềm bao phủ vạn vật. Ban ngày hai người lang thang trên đồi thông như trong tuần trăng mật ngày nào ở Đà Lạt...Hai vợ chồng nàng ngập tràn hạnh phúc. Tưởng như cuối đời êm ấm bên nhau. Những chương trình du lịch nơi xa đã được hoạch định, chàng sẽ lần lượt đưa nàng sang Âu Châu, Phi Châu, thăm xứ Ai Cập huyền bí, về Á đông thăm Miến Điện, Thái Lan, xứ Chùa Tháp cho thỏa nỗi ước mơ. Chàng dự tính vài năm nữa chàng sẽ đưa nàng đi hành hương xứ Phật và cùng nhau sửa soạn cho đời sống tâm linh. Chương trình như thế mà mới nghỉ hơn một năm, chưa thực hiện được những điều mơ ước, chàng nỡ bỏ nàng mà đi xa, thật xa, đến một chân trời nào đó và nàng còn lại đây, đơn độc, nghẹn ngào.
 
Buổi chiều, mặt trời xuống dần, đường chân trời viền quanh những ngọn đồi phía xa vàng ửng lên rồi thoi thóp, ánh sáng yếu dần rồi lịm tắt. Những buổi hoàng hôn như thế hai vợ chồng ngồi bên nhau ngắm cảnh chiều tà, có những lúc Hân chợt hỏi:
 
_ Khoa ơi, anh có bao giờ nhìn thấy chân trời tím?
_ Có chứ, khi ở ngoài khơi mênh mông, sau cơn mưa dông, cả một vùng trời rưng rưng màu xám thật buồn. Và khi mặt trời lặn, vùng chân trời phía bên kia nhuộm một màu tím huyền hoặc đẹp vô cùng. Một ngày nào đó anh sẽ đưa Hân đi ngắm "Chân trời tím".
 
Hân ngả vào người Khoa khe khẽ hát:
 
_Anh hứa đưa em về nơi chân trời tím,
nghe gió êm qua trái tim từng hoàng hôn
Em chỉ muốn duyên tình hai chúng ta
như ánh sao cao vút, cao xa trần gian...
 
Hân yêu bài hát ấy, nó nhẹ nhàng man mác buồn như tâm trạng của Hân, hai câu cuối:
 
_Nhưng em biết muôn đời muôn kiếp sau,
Anh với em không hề đến gần nhau
 
Hân biết là buồn quá nhưng Hân có Khoa, dù có những khoảng thời gian vì hoàn cảnh phải cách xa nhưng lúc nào Hân cũng biết là Khoa luôn nghĩ về Hân. Có ngờ đâu Khoa bỏ Hân đi đúng lúc hai người đang hạnh phúc nhất, đang hứa với nhau và lòng tự bảo lòng phải sống thật sung sướng để bù đắp cho nhau những gian khổ đã phải trải qua.
 
Đỗ Dung



 
TÌM MÂY
ĐỖ DUNG
 
 
 
Trời cuối thu, những chiếc lá vàng bay lượn trên không rồi từ từ thả mình xuống mặt đất.  Thỉnh thoảng một cơn gió nhẹ lướt qua, đám lá trên cành lao xao và khi trời lộng gió từng đám lá lià cành tung mình khắp không trung.  Cảnh đẹp như tranh vẽ. Chỉ vài ngày nữa thôi, chiếc lá cuối cùng rụng xuống, cây sẽ chỉ còn những cành trơ trụi, khẳng khiu.
Bà bước ra khu vườn nhỏ, lững thững đặt chân trên thảm lá vàng, những chiếc lá khô như vỡ vụn dưới từng bước chân.  Không gian tĩnh lặng, êm đềm.  Bà hít thật sâu, thở ra thật nhẹ.  Bà đếm từng hơi thở, chú tâm đến từng bước chân đi, đầu óc nhẹ nhàng, tâm hồn thanh thản.  Cứ lẳng lặng như thế cho đến lúc thấm mệt bà ngả người trên chiếc võng ngước nhìn lên trời cao tìm mây.  Trời xám buồn, chỉ có vài quầng mây mỏng, ửng nắng.
Như vòng xoay của tạo hoá, một năm có bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông. Một ngày có bốn buổi: Sáng, trưa, chiều, tối. Bà đang ở vào giai đoạn cuối của cuộc đời: Buổi tàn thu hay lúc chiều tà chạng vạng.
-       Bà ơi, tôi đi đây!
Tiếng ông từ trong nhà vọng ra. Bà nhỏm dậy định bước vào.  Ông như biết ý nói thêm:
-       Tôi thấy giỏ đồ ăn bà sắp sẵn đây rồi.  Cứ ở ngoài đó đi, tôi tự đóng cửa được mà.
-       Ờ, trời lạnh, khi cho chúng nó ăn ông nhớ bỏ vào “microwave” hâm nóng. Mỗi hộp chỉ cần bốn mươi giây là đủ ấm, vừa ăn đó nha!
-       Nhớ rồi, cứ ở đó đi, khi thấy lạnh bà phải nhớ vào nhà. Tôi đi!
Chả là mỗi ngày, cỡ hai giờ chiều ông sang nhà con trai cũng ở gần, cách khoảng mười phút lái xe.  Đợi các cháu đi học về, ông trông cho chúng nó làm bài vở, cho chúng ăn uống rồi ông ngồi chơi cho có người lớn trong nhà.  Đợi đến khi bố mẹ chúng nó về thì ông từ giã. Hôm nào có giờ bơi lội hay học đàn, tập võ, ông chở luôn cả đám trẻ đi.  Và lúc ông sửa soạn ra đi thì bà luôn lăng xăng bên ông, tiễn ông ra tới ngoài đường mới quay vào đóng cửa nhà xe.
Hồi còn ở nhà cũ bên tiểu bang Texas, khi đã về hưu ông vẫn có thói quen mỗi ngày phải lái xe ra khu chợ Việt Nam gặp mấy ông bạn già, chỉ để ngồi bên tách cà phê chuyện gẫu, hết chuyện nước non nhà lại đến chuyện nhân tình thế thái.  Hình như các ông không thể ngồi nhà cả ngày.  Hễ hôm nào biếng đi là y như rằng không nhức đầu cũng cảm mạo, ho hắng.  Bà chỉ thích quanh quẩn trong nhà, thu xếp dọn dẹp rồi ra cắt tiả ngoài vườn.  Bà chơi với vườn rau, vườn hoa của bà cả ngày không biết chán.  Thêm nữa bà có nhiều thú vui khác như sơn phết, trang hoàng nhà cửa, may vá, viết văn, đọc sách, nghe nhạc... Đôi khi bà thấy một ngày có hai mươi tư tiếng với bà không đủ.  Mặc dù vậy bà vẫn dành những phút thả hồn theo những cụm mây trắng lang thang, bềnh bồng phiêu lãng.
Ông bà có hai người con, một gái một trai, xong trung học cả hai đều được nhận vào trường đại học Berkely, California. Khi ra trường cả hai đều gặp được người ý hợp tâm đầu, lại được công việc tốt nên lập nghiệp bên ấy.  Khi ông bà về hưu đã có hai thằng cháu ngoại, cậu con trai cũng lập gia đình rồi.  Cả hai đều có nhà riêng.
Cuộc sống hưu trí của hai vợ chồng già êm ả trôi cho đến ngày nghe tin con trai sắp có con đầu lòng, bà bàn với ông:
-       Mình dọn nhà về ở gần các con được không ông?
Ông còn ngần ngừ:
-       Chúng nó có cần không mà về?  Nhà Cali đắt đỏ, sao mình mua nổi?  Đang ở bên này nhà cửa rộng rãi, thoải mái!
Như có thần giao cách cảm, cô con gái điện thoại sang thủ thỉ với mẹ:
-       Mẹ ơi, bố mẹ sắp có cháu nội.  Bố mẹ thu xếp sang ở gần chúng con.  Bố mẹ ngày một già, có chuyện gì chúng con ở gần vẫn dễ hơn.  Bây giờ đứa nào gia đình cũng đùm đề.  Bố mẹ ở xa chúng con cũng khó thăm viếng.  Vả lại các cháu cũng cần nhờ ông bà trông nom, dậy dỗ.
Khi các bà bạn nghe nói ông bà có ý định dọn về Cali, ở gần con để trông cháu, có bà đã nói:
-       Cẩn thận nghe bà, đừng mắc bẫy chúng nó.  Khi cần thì nói ngon nói ngọt.  Khi hết cần thì chúng sẽ có cả ngàn lý do để quét mình đi thẳng cánh.  Già rồi, hãy lo cho thân mình đi.
Bà bạn già khác cũng nhắn nhủ:
-       Cô đừng tưởng không có mình trái đất sẽ ngừng quay. Không có cô mọi việc cũng sẽ đâu vào đấy.  Hồi chúng mình mới sang đây, có nội ngoại nào ở gần đâu, vậy mà chúng nó cũng nên người đó thôi. Việc chính là hai vợ chồng già phải lo cho nhau. Khi rảnh rỗi thì đi chơi chứ vướng cháu thì chả còn đi đâu được nữa.
-       Mẹ chồng nàng dâu là truyện truyền kiếp, từ xưa đến nay, từ Âu sang Á.  Bà hãy nghĩ cho kỹ trước khi quyết định.  Đừng để mắc vào cảnh dở khóc dở cười.  Nhất là đừng ở chung, phức tạp lắm.
-       ...........
Những lời dặn dò cũng khiến bà nao núng.  Những kinh nghiệm và hoàn cảnh đau thương cuả những người quen mà bà chứng kiến cũng khiến bà ngại ngùng. Bà nhớ ngày xưa ấy, buổi tối trước ngày bà lên xe hoa, mẹ bà đã dặn dò con gái về nhà chồng phải nhớ chữ nhẫn nhịn và trong đời cứ đối xử tốt sẽ gặp hay.  Cứ ăn ở cho đầy đượm, hết lòng, cho phải đạo làm người.  Gieo nhân lành sẽ gặp quả tốt... Bà đã về nhà chồng với niềm tin phơi phới, với hành trang là trái tim đầy ắp yêu thương.  Tình thương bà sẵn sàng cho đi trước để mong được nhận lại. Nhưng thực tế đã khiến bà ngỡ ngàng, những đối xử khó khăn của mẹ chồng làm bà không hiểu nổi, chỉ biết im lặng chịu đựng.  Cuối cùng nhân lành của bà gieo cũng nhận được quả ngọt. Những năm tháng về sau hai mẹ con đã thông cảm nhau hơn, thương yêu nhau hơn, nhất là những ngày sau biến cố Tháng Tư năm bẩy lăm. Trong phút lâm chung cụ đã nắm tay bà mà nói: “ Bỏ qua nhé, bỏ qua hết nhé... Mẹ sẽ phù hộ cho các con, mẹ sẽ phù hộ cho các cháu...”.  Khi đi vượt biên, lúc nào bà cũng cảm thấy như có cụ ở kế bên. Nguy hiểm nào cũng như được cụ phù hộ để vượt qua.
Bây giờ bà là mẹ chồng và có nàng dâu. Bà tâm niệm rằng sẽ yêu thương dâu, rể hết lòng để lịch sử không hay về mẹ chồng nàng dâu không tái diễn. Lịch sử phải sang trang!
Cô con dâu phải sinh mổ nên đã chọn ngày.  Bà sắp sẵn công việc để sang Cali trước ngày sanh cháu.  Bà muốn là người đầu tiên ôm cháu nội vào lòng như trước kia bà đã vào phòng sanh với con gái và là người thân đầu tiên bế thằng cháu ngoại. Con bé thật xinh, đôi mắt tròn to, vầng trán cao thông minh.  Ôm con bé vào lòng mà bà sung sướng ngất ngây, niềm yêu thương dào dạt. Bà gửi hình cho ông và báo cho ông biết là bà sẽ ở lại chơi với cháu, trông nom mẹ con nó cho đến khi đầy tháng bà mới về. Ông biết là ông lại bị bà bỏ rơi như khi bà sang chăm lo cho thằng cháu ngoại.
Một tháng nuôi gái đẻ bà đã lo lắng chu toàn như mẹ đẻ lo cho chính con gái ruột. Cô con dâu theo kiểu xưa nên kiêng rất kỹ.  Cô ở trên lầu, bếp ở nhà dưới, hàng ngày bà phải ba bữa sửa soạn cơm nước sắp vào khay bưng lên tận phòng. Bà nấu cơm nghệ, hầm chân giò với hạt sen, rim thịt thăn với nước mắm, hạt tiêu, thật khô cho bà đẻ.  Mỗi ngày bà lại nấu một nồi nước xông bỏ thêm vỏ bưởi, vỏ quít  để cô hơ mặt, lau mình.  Bà đã làm tất cả bằng sự thương yêu, tự nguyện. Con bé cháu thì bà vuốt ve, nắn bóp chân tay.  Ầu ơ ví dầu hát ru cháu, cả ngày bà thủ thỉ chuyện trò với con bé. Mỗi sáng bà bế nó sang giường bà phơi nắng.  Những vạt nắng vàng tươi, trong trẻo, xuyên qua cửa sổ ngay cạnh giường bà.  Nắng vuốt ve, ôm ấp cái lưng xinh xinh, bé xíu.
Sau ngày đầy tháng con bé bà trở về Texas. Bà nhớ quắt quay ba đứa cháu nội, ngoại bên Cali.  Bà nài nỉ:
-       Ông ơi, mình dọn về Cali nhá!
-       Mình đang sống yên ổn bên này. Chúng mình mỗi ngày một già, bà liệu còn sức mà chạy theo mấy đứa nhỏ không?  Cố gắng rồi gục xuống, đau ốm lại khổ.
-       Đến đâu hay đến đó ông à.  Mình ở đây rảnh rang, chúng nó thì bận rộn.  Giúp cho chúng nó được lúc nào hay lúc ấy.  Ông lo gì xa quá.
Bà hạ giọng thuyết phục thêm:
-       Ông này, nhìn con bé tôi thương lắm.  Hay là mình về trông cháu vài năm. Khi con bé biết nói thì thôi.  Nghĩ đến việc mướn người hay gửi người ta trông tôi ngại lắm ông ạ. Nhỡ nó bị hành hạ... Nó đã biết nói đâu mà mách. Ông xem trên truyền hình hay trên mạng đi.  Bây giờ có nhiều kẻ bịnh hoạn, nhiều người độc ác lắm đó ông ơi...  Về nhá...!
Ông nghe cũng hơi xiêu lòng:
-       Để tôi nói chuyện với chúng nó xem sao.  Bà sửa soạn đặt vé máy bay đi. Bà với tôi cùng về Cali một chuyến. Tôi cũng muốn sang thăm mấy đứa cháu.  Đi về rồi mới tính được.
Nghe nói bố mẹ sang chơi thăm thú tình hình để xem có thể dọn về không, hai người con đều dọn dẹp một phòng riêng tươm tất ở mỗi nhà để tuỳ bố mẹ thích ở nhà nào cũng được vì hai nhà cũng gần nhau.
Gặp mặt ba đứa trẻ ông như bị hớp hồn. Thằng cu Bi, cháu ngoại lớn, mới ngày nào đến thăm ông, nó mới biết đi lẫm chẫm mà mỗi buổi chiều khi nghe chuông cửa đã biết ông đi làm về để lủn tủn như con chó con vẫy đuôi chào rồi cất mũ, cất giầy cho ông, bây giờ đã học lớp hai tiểu học. Thằng cu Tý, em nó, khi mới đẻ nằm trong nôi cứ toét miệng cười đã sắp vào mẫu giáo. Con mé MiMi  trắng trẻo, bụ bẫm, đôi mắt tròn xoe đã biết nhìn ông hóng chuyện.  Ông bà ở chơi một tuần với con cháu, đi thăm khắp vùng xung quanh.  Hai thằng cháu ngoại đưa ông bà đến thăm ngôi trường chỉ cách nhà hơn một block.  Khung cảnh quanh đó cũng êm ả, thanh bình. 
Nhà hai con ông chỉ cách nhau vài khúc rẽ. Đi bộ thì mất độ nưả giờ mà lên xe thì không đến mười phút. Cả hai nhà đều tươm tất, sạch sẽ; vườn trước, vườn sau rộng rãi, khang trang.  Đi xem giá nhà thì quá đắt so với bên chỗ ông. Bằng căn nhà ông đang ở thì bên này giá gấp bốn hoặc năm lần. Nếu dọn về thì đó thật là vấn đề nan giải.
Những cặp mắt đen láy của các cháu ngước nhìn ông, những câu nói ngây thơ hồn nhiên, những tràng cười khanh khách, giòn tan của hai thằng nhỏ quyến rũ ông, khiến ông bà quyết định về gần chúng nó.
Những năm đầu thật hạnh phúc, đúng như ao ước của bà, nhà có già có trẻ, vui vẻ, ấm cúng. Thoạt đầu ông bà ở nhà con trai vì bé Mimi nhỏ nhất.  Bà trông nom con bé, nấu ăn cho cả hai nhà.  Mỗi buổi sáng ông xách giỏ đồ ăn bà nấu sẵn sang nhà con gái, trông nom dậy dỗ hai thằng cháu ngoại.  Được một năm cô con thèm một đứa con gái nên ráng sanh thêm, nhưng lại ra thằng con trai nữa. Thằng bé tuổi chó nên ông gọi là con chó Lu.  Ông bà lại dọn sang nhà bé Lu vì bé nhỏ nhất. Bé Mimi lớn hơn nên mỗi buổi sáng bố nó phải đưa sang nhà bác trước khi đi làm.  Buổi chiều mẹ nó đến đón, tiện xách cơm về luôn.  Ông bà quên hết các thú vui khác, suốt ngày chạy theo các cháu.
Ông bà như trái banh bị đá qua đá lại giữa hai nhà vì năm sau cô con dâu cũng lại sanh thêm đứa nữa.
Thấm thoắt ông bà về Cali đã hơn mười năm, cu Bi sắp vào đại học.  Nếu ở Việt Nam thì Mimi sắp là nữ sinh Trưng Vương.  Thời gian qua thật nhanh, ông bà cũng già yếu đi nhiều.  Các cháu đã lớn không cần sự săn sóc nhiều nữa, cu út cũng lên bẩy, đã đến trường.  May mắn gặp được căn nhà nhỏ vừa túi tiền, vừa với nhu cầu nên ông bà đã ra ở riêng.  Sống với con cái cũng có những đụng chạm, bà coi như đó chỉ là những chuyện nhỏ, những suy nghĩ khác nhau cuả hai thế hệ, cung cách sống, quan niệm về đời sống khác nhau giữa già và trẻ để giữ cho mình được cái tâm thanh thản. Mình không biết trước được những gì xẩy ra nhưng được an lạc hay không là do tâm mình.
Bây giờ bà đã chính thức về hưu chỉ còn ông vẫn “đi làm” ngày vài tiếng, để ông khuây khoả, khỏi phải lái xe đi tìm bạn già chuyện gẫu.  Bà cũng có một khoảng thời gian riêng, không gian riêng của mình bà. Bà lại ngước mắt tìm mây, những cụm mây trắng nhẹ như bông lang thang trong bầu trời, ở đó bà đã gửi gấm những mộng mơ, lãng mạn của thời niên thiếu. Bà cũng đi tìm mây để hỏi khi vướng phải những trắc trở, chông gai.  Bà đã biết chấp nhận những đau khổ, đã tìm ra những khiá cạnh lạc quan của sự việc và cho rằng đó chỉ là những thử thách nên mọi chuyện cũng thoáng qua, nhẹ bay đi như những làn mây thoảng.
Thu tàn trời sẽ sang đông.  Mỗi muà đều có những vẻ đẹp riêng. Hết muà đông cây cối sẽ đâm chồi nẩy lộc.  Xuân về với những chùm Wisteria tím rung rinh trong nắng.  Muôn hoa sẽ khoe sắc, toả hương.  Buổi sáng ông bà sẽ cùng đi bộ trên những con đường có hai rặng anh đào hồng thắm, những rặng Dogwood trắng muốt tinh khôi.  Mây trắng trên cao vẫn lờ lững theo bà. Chim chóc ríu ríu hát ca.  Cảnh thiên nhiên khiến bà ngất ngây.  Bà muốn ôm hết vũ trụ này, lòng bà ngập tràn hạnh phúc.
 
Đỗ Dung
 
 
NHỮNG NGÀY XA XƯA
ĐỖ DUNG
 
 
 
Cầm quyển lưu bút trong tay, giở hộp hình cũ, nhìn lại những khuôn mặt thân thương, những dòng chữ quen thuộc…Lòng tôi thấy bâng khuâng với bao kỷ niệm của thời xa xưa. Nhớ ơi là nhớ!
Những cánh hoa sao xoay tít trên không, bầu trời xanh thẳm cao vút của con đường Nguyễn Bỉnh Khiêm như đang hiện ra trước mắt tôi, những khuôn mặt ngây thơ của một bầy chim non chập chững, ngơ ngác bước vào cổng trường Trưng Vương năm đệ thất, những cô bé còn e lệ, thẹn thùng với thày cô mới, bạn mới, còn lúng túng, ngượng ngập, vướng vít với vạt áo dài… Năm ấy chúng tôi được sự dạy dỗ rất kỹ của bà Kỷ, bà Tuyết, Cô Trinh, cô Hồng Diệp…Giờ ra chơi chúng tôi vẫn còn nhảy dây, nhảy lò cò, chơi đánh chuyền, chơi trồng nụ trồng hoa và hay nhặt những cánh hoa sao ném tung lên để nhìn chúng xoay tít, xoay tít, những tia nắng xuyên qua kẽ lá trên cao thành những vệt nắng dài…
Năm đệ ngũ chúng tôi lập ra Họ Nhà Tí gồm bảy Tí Cô Nương. Đứng đầu là Tí Bố Vũ Thị Thanh cao lêu nghêu, dí dỏm. Tí Lớn Đỗ Dung, hỗn danh Dung Lu vì có da, có thịt nhất bọn. Tí Nhỡ Chi Nga, “ngon như cục mỡ, sạch như quyển vở”, mặt lúc nào cũng khinh mạn. Tí Con Mộng Diệp dịu dàng. Tí Ti Hồng Trinh ướt át hay khóc. Tí Tẹo Cẩm Tú nghịch ngợm. Tí Cu Kim Anh, khểnh răng cửa hay pha trò. Họ Nhà Tí làm thơ, ăn quà, nghịch ngợm, phá phách nhưng cũng chăm chỉ học hành. Tuổi mười ba, tuổi của mộng mơ, chúng tôi bắt đầu yêu cô giáo, mỗi đứa trồng cây si một cô và ca tụng, bênh vực triệt để thần tượng của mình. Đứa nào đụng chạm đến “người yêu” là sẽ biết nhau ngay!
 
Nàng của tôi là cô Xuân Sanh, môn chính cô dạy là Pháp Văn nhưng vì trường thiếu giáo sư nên cô dạy chúng tôi môn Địa Lý. Ngày đầu tiên cô bước vào lớp tôi đã choáng váng, ngất ngây, có một cái gì đó như nhập vào hồn. Tôi yêu giọng Huế nũng nịu, dáng vẻ dịu dàng, thanh thoát như một búp Ngọc Lan. Mỗi lần cô nói “Có phải không nạ!” là cô lại nhìn tôi. Có một hôm chả hiểu sao cả buổi cô chẳng nhìn tôi. Tôi tủi thân quá, cúi xuống gầm bàn làm thơ:
 
Xuân Sanh, Xuân Sanh
Người tôi đang yêu quý
Người tôi đang ước mơ
Cô giáo nhỏ ngây thơ
Như con chim thờ ơ
Không nhìn tôi không nói
Tôi cảm thấy bơ vơ!
 
Vì yêu cô tôi làm thơ, vì yêu cô tôi chăm đi tập vũ cầu, chăm đi tập thể dục thẩm mỹ với cô Vĩnh ở sân Phan Đình Phùng và mỗi chủ nhật lại chịu khó đi họp Hướng Đạo vì nhà cô ở Phan Đình Phùng, ngay trước cửa sân vận động.
 
Nhà cô toàn đàn bà, bà mạ, bà dì, ngũ long công chúa, Xuân Sanh, Hồng Vân, Thanh Vân, Túy Vân và Bạch Vân. Tôi yêu cô nên yêu cả gia đình cô, tôi cũng gọi các em cô bằng tên ở nhà, chị B, chị C, Chuột, Nhỏ. Đến nhà cô tôi tìm được những phút giây êm đềm. Có những hôm tôi ngồi hàng giờ nhìn cô ngồi trên đi văng may áo dài. Thế rồi ngày cô lên xe hoa tôi đã khóc, đã để đầu trần đi trong mưa. Cảm giác mất mát thật đớn đau. Tôi gậm nhấm thú đau thương (!)
 
Những ngày thơ ấu thật lãng mạn và cái lãng mạn thật là hồn nhiên.
Hồng Trinh mảnh mai, tóc dài mướt như lụa, cặp mắt to đen láy, thật thông minh nhưng hay ướt.
 
Tí Ti…
Sao đời lắm sầu bi
Cười lên cho vui chứ
Lau nước mắt lẹ đi…
 
Chi Nga làm thơ hay hơn, người lớn hơn, tôi còn nhớ vài câu:
…….
Gục mặt xuống bàn mắt ướt luôn
Nhưng sao tôi hỏi em không nói
Có phải vì tôi lệ ngọc tuôn……
 
Chúng tôi làm nhiều thơ lắm, tôi có một quyển sổ con ghi lại những vần thơ sầu, thơ tếu, thơ con cóc của tuổi mười ba nhưng quyển sổ nhỏ quá, lại dọn nhà bao phen nên thất lạc, thật tiếc!
 
Năm đệ tứ tôi được miễn tập thể thao vì lý do sức khỏe (bà bác sĩ nói là tim to (!)) Oái oăm thay tôi lại là lực sĩ chủ lực của trường! Đội vũ cầu chúng tôi tập rất đều đặn, ngày nghỉ lại đem vợt đến sân Phan Đình Phùng hoặc đến nhà Hồng Trinh ở Lý Trần Quán tập tiếp. Ngày đi thi đấu giải liên trường, khi đấu đôi Trinh cặp với Tú còn tôi đứng với Hảo. Hai đứa đánh rất ăn ý, Hảo là vua bỏ nhỏ còn tôi có cú đập rất tới, ngay sau khi giao cầu, Hảo thủ nửa sân trên, tôi bao nửa sân dưới. Khi đấu đơn, qua vòng bán kết, vào chung kết tôi bị hạ bởi Lam Thảo của Nguyễn Bá Tòng, cô nàng vừa đẹp vừa dễ thương. Tôi chạy thi tiếp sức với Lệ Tâm và Thu Hà. Bố tôi cứ cười mãi và nói:” Người thì lùn, chạy lạch bạch mà cũng là lực sĩ điền kinh!”. Còn nữa, cô Hiền còn cử tôi đi thi ném tạ, cả năm chẳng tập, chỉ dượt có vài tuần mà tôi ném rất khá, nhưng ở nhà thì nhất mẹ nhì con, ra sân đấu tôi đụng ngay Phạm Thị Thục Nữ của trường Thiên Phước, nàng ta to, cao và khỏe như con beo, nàng phá kỷ lục năm đó và chắc chắn về sau không ai phá nổi kỷ lục của nàng.
 
Đến ngày kỷ niệm Hai Bà, trường cử Bích Loan, Lưu Mỹ và tôi… đi thi văn chương phụ nữ . Để sửa soạn, chiều nào Bích Loan cũng đến đón tôi đi đến các tòa báo và thư viện để nghiên cứu tài liệu. Năm đó dinh Độc Lập bị oanh tạc nên chúng tôi không được vào dinh Tổng thống để lãnh quà. Phần thưởng và giấy chứng nhận được gửi thẳng về trường.
 
Hè năm đệ nhị, Hoa Tâm đến nhà xin phép cho tôi đi dự trại hè học sinh sinh viên toàn quốc ở Đà Lạt. Dân Trưng vương có Phương Trà, Minh Châu, Ngô Thị Ngân, Lan Trân, Lệ Hà, Hoa Tâm và tôi. Chúng tôi có một tuần lễ thật vui. Ban ngày sinh hoạt ngoài trời, làm công tác xã hội, xây một cây cầu và đắp một con đường cho dân địa phương. Buổi tối sinh hoạt văn nghệ hoặc hội thảo với các thày Minh Châu, Thiện Minh, Thiên Hoa.
 
Qua năm đệ nhất, chúng tôi đã bắt đầu có những nỗi buồn vu vơ, cảm giác sắp phải xa trường, xa bạn. Tâm trạng chúng tôi lúc đó đầy mâu thuẫn. Khi thì ngồi lặng bên nhau, buồn muốn khóc. Lúc lại xúm nhau đùa giỡn, nghịch ngợm, trêu chọc bạn bè, phá phách thầy cô. Chúng tôi như muốn níu kéo, giữ lại một cái gì. Chúng tôi lập Đảng, lúc thì gọi là Đảng Loạn Ngôn, lúc thì cho là Đảng Vô Ý Thức còn cô Ninh gọi chúng tôi là Đảng Nhộn. Đảng chúng tôi gồm Đảng Trưởng Mai Oanh, nhỏ nhắn, xinh xắn, hàm răng khểnh rất có duyên, phát ngôn thoải mái. Đảng Phó Cẩm Tú bò khô, ngang tàng. Đảng viên có đại bác học Dương Thị Mai, tức Giang Mai, chuyên môn phát minh những khí cụ tối tân để bảo vệ hòa bình, phi công Trần Thị Ngọc to con, nhiệm vụ vác bom đi oanh tạc, thày dùi Vũ Thị Lệ trông hiền như Ma Sơ, chuyên viên nghịch ngầm, anh hùng dân tộc Dung Lu bạo gan, bạo phổi, chả sợ thằng tây đen nào, được Tú gọi là Má, Lệ gọi là Tía còn em Tú Khanh nhất định gọi là Chồng. Ngoài sáu đứa trong đảng, chúng tôi cũng chơi thân với những bạn khác trong lớp như Hảo, Chinh, Liễu, Ngọc Anh, Tú Khanh,Hoa Tâm, Năm, Kim Liên, Vượng, Vân, Thể… Bọn chúng nó không nghịch và không có gan nên không vào đảng, chỉ cười hùa.
 
Nghĩ lại thấy thời tuổi trẻ thật vui, đôi khi tàn ác, cứ giờ toán thày Giảng là bắc cái ghế đẩu nhỏ để lên bục rồi cười rúc rich. Giờ thày Tẩm nhiều chuyện vui nhất, vì thế mà chúng tôi dễ thuộc bài hơn vì mỗi bài học lại có chuyện bên lề để nhớ. Chẳng hạn như hôm thày vẽ về bộ máy tuần hoàn, quả tim thật đẹp với những đông mạch, tĩnh mạch chằng chịt. Có đứa kêu lên:
 
- Phấn của Thày vẽ con gà chắc là đẹp lắm!
- ???
- Thưa thày, con gà chân vàng, thày…
Chả là hôm ấy thày đi giày “jaune”, diện với áo xanh ve, quần màu nâu.
 
Giờ Triết, hôm thày Lộc giảng về ý thức và vô ý thức, có đứa nghịch gắn vào thắt lưng thày một cái đuôi chồn, thày không biết cứ đi qua, đi lại với cái đuôi ve vẩy ở đàng sau. Cả bọn cố ôm bụng, bậm môi lại mà nuốt tiếng cười. Chợt một giọng nói cất lên:
 
- Thầy đúng là “vĩ nhân”!
 
Thế là một tràng cười vỡ tung, không đứa nào nhịn được, cười nghiêng, cười ngả…
 
Thầy thật hiền, khi biết lý do chỉ cười xòa:
- Các chị nghịch quá!
 
Nhờ bài giảng của thầy nên ngay ngày hôm sau, khi thầy Tẩm tặng cho lớp câu “Vô ý thức” Dung ta bèn đứng lên vặn vẹo thầy. Đúng là ngựa non sáo đá!
 
Đảng chúng tôi nghịch vậy đó nhưng không bị thầy cô ghét vì chúng tôi vừa nghịch, vừa chơi, vừa học giỏi (sic!) lại vừa hoạt động. Hôm bầu ban đại diên toàn trường chúng tôi chiếm ngay ba ghế, Dương Mai ban học tập, Cẩm Tú ban thể thao còn tôi ban báo chí.
 
Gần ngày thi lục cá nguyệt chúng tôi phải bảo nhau ngưng chương trình nghịch ngợm để lo học. Cứ nước đến chân mới nhảy nên lần nào cũng phải chạy nước rút, học bở hơi tai, học xanh cả mặt, học héo cả người. Thấy học mệt quá lại bảo nhau từ nay phải học cho đàng hoàng. Thi xong thì chứng nào tật nấy. Đến lúc gần thi đệ nhị lục cá nguyệt lại vắt giò lên cổ, mỗi đứa phải chui vào một xó để nhai vạn vật, tụng Lý Hóa, nuốt Luận Lý, Đạo Đức, Tâm Lý…Chúng tôi hối hận quá, hứa với nhau sẽ chăm chỉ học hành và cái điệp khúc ấy, cứ hối hận rồi hứa hẹn, hứa hẹn để rồi lại hối hận theo chúng tôi cả thời kỳ học đại học.
 
Hè năm ấy, sau hơn một tháng cấm cung, nín thở để học thi, kết quả chúng tôi cùng thi đỗ và cùng lên đại học nhưng phân tán mỗi đứa một phân khoa, Lệ, Ngọc vào Sư Phạm, Mai đi Luật, Oanh Văn Khoa, Tú học Nông Lâm Súc còn tôi cắp sách vào trường Dược. Rồi lần lượt từng đứa, từng đứa lên xe hoa để bước vào cuộc sống mới, bận bịu với công việc làm, với chồng, với con… Mỗi đứa một định mệnh, mỗi đứa một cuộc đời.
 
Các thầy cô kính yêu, hôm nay, những đứa học trò nhỏ bé, nghịch ngợm ngày xưa đã gần bẩy mươi. Đã có dâu, có rể, có cháu nội ngoại… Các thầy cô có người đã ra đi vĩnh viễn (thầy Giảng, thầy Lộc), các thầy cô còn ở nơi nào trên quả địa cầu này, nếu vô tình đọc được những dòng chữ này thì xin thầy cô hãy nhận nơi đây tấm lòng biết ơn và ngàn lời tạ lỗi!
Đỗ Dung
 
 
 
 
NHƯ HẠT MƯA SA
 
 
 
     ĐỖ DUNG
 
 
Tiếng chuông điện thoại reo vang.
-Hello, xin lỗi có phải nhà bà Hân không ạ?
-Dạ phải, Hân đây.  Ai ở đầu dây đấy ạ?
Một giọng nói thật quen, tiếng cười thật quen:
-Đoán đi...Ta đây...hihihi...
-Trời ơi, Thi, Thi...Phải Thi không?  Mi đang ở đâu đó?
-Canada!  Hà hà hà... Mi lạ lắm hả?
Thế rồi hai người ríu rít chuyện trò, chuyện xưa, chuyện nay, người này, người nọ.  Hồi học Trưng Vương, Thư, Nguyệt, Trang, Thi, Hân, luôn chiếm lĩnh dãy bàn đầu, cả năm người thuộc loại học giỏi, quậy phá trong lớp và rất thân nhau. Kỷ niệm cũ như ùa về.  Năm cuối là năm buồn nhất nhưng cũng nhiều kỷ niệm nhất vì có gì cản được những chuyện chọc phá của năm cô nàng tự phong là “ Ngũ Long Công Chúa”.HH
Ngồi trong lòng chiếc phi cơ, Hân thấp thỏm nhìn đồng hồ, chỉ còn hơn nửa tiếng nữa Hân sẽ gặp lại đủ bốn người bạn thân ngày xưa. Thi từ VN đến Canada thăm con, với bản tánh tháo vát, nhanh nhẹn Thi đã liên lạc tìm ra đủ bốn người bạn xưa. Thư- Phiên ở Houston.  Nguyệt-Khang vẫn ở bên Pháp.  Trang được tin các bạn cũng mừng lắm, đứng ra tổ chức buổi họp này.  Vợ chồng Trang-Hào ở tại vùng Hoa Thịnh Đốn, Tháng Tư có hội hoa Anh Đào nên Trang mời mọi người nhân dịp này đến tụ họp ở nhà Trang để chào đón Thi từ VN sang, tiện thể cùng nhau đi ngắm hoa đào, tham dự hội hoa và đưa Thi đi chơi cho biết Thủ đô nước Mỹ. 
Máy bay vừa đáp, bánh xe ngưng, Hân mở lại chiếc điện thoại di động đã nghe tiếng chuông reng, tiếng Trang:
-         Hân đợi ngay chỗ lấy hành lý nha, vợ chồng Thư và Nguyệt đang đi lấy xe, họ sẽ liên lạc để đón Hân cùng về nhà Trang.  Thi đang ở nhà Trang rồi đây.
Vừa chuyện xong với Trang đã nghe tiếng chuông điện thoại của Thư:
-         Ta gặp vợ chồng Nguyệt rồi, tụi ta đang đi mướn xe, mi lấy hành lý xong ra đứng sẵn phía ngoài nha, tụi ta đi ngang sớt mi luôn, nếu chưa thấy mi ta sẽ vào tìm để ông Phiên lái vòng vòng rồi quay lại, khỏi phải vào parking.  Nhớ nghen.
Trời xẩm tối tất cả có mặt ở nhà Trang, ôi nhìn nhau mà biết bao nỗi mừng mừng, tủi tủi.  Năm nàng nay ba cặp vẫn còn trọn vẹn.  Hân, Thi đã lẻ bóng.  Nhà có bốn phòng ngủ Trang sắp hai bạn có cặp vào hai phòng còn Hân và Thi ở chung một phòng; đêm đầu tiên anh Hào tế nhị sang phòng đọc sách, nhường phòng ngủ lớn cho năm nàng ngủ chung để tha hồ trò chuyện.  Hơn bốn mươi năm dời trường nhưng khi gặp lại  cả năm người trở lại như xưa, như thuở Trưng Vương và lại xưng hô mày tao chí choé.  Sau bữa ăn tối ba ông ngồi phòng khách xem TV, bàn chuyện thời cuộc.  Năm cô nàng rút vào phòng ngủ bắt đầu chuyện xưa, chuyện nay.
-         Tao cho tụi mày xem cái này.
Nguyệt rút trong ví ra một tấm hình.  Xong Tú Tài Nguyệt lên xe hoa đầu tiên nên bốn đứa cùng làm phù dâu, tấm hình đám cưới Nguyệt, mặt mũi năm đứa còn non choẹt.  Nhớ qúa ngày xưa.  Gia đình Khang bên Pháp, chàng tốt nghiệp bác sĩ, về nước kén vợ nên sau đám cưới là Nguyệt phải theo chồng đi Tây.  Cả bọn nhớ ngày ra Tân Sơn Nhất tiễn Nguyệt đi, buồn vui lẫn lộn.  Nguyệt kể những nỗi nhớ nhà và cô đơn nơi xứ lạ quê người hồi ấy.  Những khổ tâm của năm 75, sự lo lắng về gia đình, về đất nước như thế nào.  Nguyệt có hai con trai cũng học theo nghề của bố, đã lập gia đình, một cậu vợ Việt, một cậu lấy đầm.  Khang mới về hưu nên đưa vợ đi chơi.  Trên sáu mươi mà Nguyệt trông rất đẹp, rất “Parisienne”.
Trang, Thi cùng vào trường Dược, năm thứ ba Trang lấy chồng, anh Hào hơn Trang mười tuổi, khi ấy anh đang ở quân y nhưng đã xong thời kỳ phải hành quân nơi địa đầu giới tuyến, về làm việc tại nhà thương Cộng Hòa.  Mấy đứa nhắc lại kỷ niệm buồn cười hồi đó.  Ngay sau khi Trang đi tuần trăng mật về, cả bọn tò mò hỏi thăm về đời sống vợ chồng thì Trang đỏ ửng mặt lên: “Kinh lắm chúng mày ạ.  Không nói được đâu.  Khi nào tụi mày lấy chồng sẽ biết”.
Thư trêu:
-         Mày nói cho tụi tao nghe đi, cái gì mà kinh thế?
-         Bây giờ các chị biết hết rồi, còn cần gì phải nói!
Cả bọn rúc rích cười.  Trang cũng vất vả nuôi con trong ba năm Hào phải đi học tập.  Gia đình Trang khá giả nên ngay khi có tổ chức vượt biên bán chính thức gia đình Trang đã nộp vàng để đi.  Sang đây cũng cực khổ thời gian đầu, Trang phải đi làm tạm trong một Viện dưỡng lão để Hào có điều kiện đi học, trở lại nghề cũ.  Bây giờ mọi chuyện đã ổn định, anh con trai độc nhất của hai người cũng theo nghiệp bố, còn kén chọn, chưa lập gia đình.  Trang phụ ngoài phòng mạch với Hào nhưng không phải qúa gò bó vì công việc.  Bao giờ bận hay muốn nghỉ thì anh con thu xếp đến làm thế cho bố.
Thư học Luật, là người thứ ba trong nhóm đi lấy chồng, Phiên tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh, vợ chồng Thư may mắn đi được ngay trước ngày 30/4, sang Mỹ định cư cũng khó khăn lúc đầu nhưng cả hai cùng đi học lại, cùng làm hãng xăng ở Houston nên thoải mái, êm đềm. Ba người con cũng đã thành tài ở riêng hết.  Năm nay hai vợ chồng cùng sửa soạn về hưu.
Trong năm bạn thân thì Hân và Thi hẩm hiu hơn,  Hân học Sư phạm, Hân và Khoa có mối tình thật đẹp của một cô giáo trẻ và anh sĩ quan Hải quân rắn rỏi, oai hùng.  Theo vận nước, cuộc đời cũng trôi nổi tuy hai người vẫn hạnh phúc, đầm ấm bên nhau nhưng ông trời già lại trớ trêu nên Khoa đã đột ngột giã từ cuộc đời sau khi hai người kỷ niệm ba mươi tám năm gắn bó.  Hân sống cô đơn trong căn nhà kỷ niệm.  Hai con đã lập gia đình và ở riêng.
Đêm đã khuya, đến lượt Thi, giọng Thi đều đều kể chuyện đời mình, Thi lập gia đình muộn nhất trong năm đứa, đám cưới được một năm, khổ sở vì chuyện mẹ chồng nàng dâu.  Cha của Thi thương cô con gái  nên đã khéo léo tìm cách giúp cho Phú, chàng rể mua căn nhà nhỏ ở cư xá Thanh Đa để ra ở riêng.  Ông tự tay lo sắm sửa đồ đạc, trang hoàng nhà cửa cho con.  Thế mà chưa kịp ăn tân gia đã đến ngày mất nước.  Thi đang mang trong mình bào thai mấy tháng thì Cha và chồng Thi đều phải đi học tập cải tạo.  Chỉ vài tháng sau ông không chịu đựng được gian khổ, đói khát vì già yếu nên đã qua đời trong tù.  Thi vừa thương cha, vừa mất chỗ dựa, vừa lo lắng cho chồng trong khi bụng mang dạ chửa, Thi đã qua một cơn bịnh nặng tưởng chết.  Mẹ Thi biết là các con không sống nổi dưới chế độ này nên bà thu góp tiền bạc lo cho anh trai và hai cô em gái Thi vượt biên.  May mắn cả ba đều ra đi trót lọt.  Thi còn nấn ná chờ chồng, lại thêm có con nhỏ nên bỏ lỡ cơ hội tốt đó.  Bốn năm sau Phú được thả ra, Thi lo tìm đường để hai vợ chồng cùng mẹ già đi nốt.  Lần đầu tiên vượt biên bị lộ nhưng may chạy thoát, không bị bắt, mẹ Thi thấy những vất vả dọc đường sợ qúa và bà nghĩ là sức khoẻ mình không cho phép nên bà đành ở nhà chờ con bảo lãnh, vừa để giữ nhà lỡ chuyến đi không thành, vợ chồng Thi và cháu còn có chỗ về.  Hai vợ chồng Thi và con bé đi thêm mấy lần nữa nhưng đều thất bại.  Tiền bạc cạn dần.  Lần cuối hai người quyết định để Phú đi một mình thì đi thoát.   Sau khi nhận được tin chắc chắn Phú đã định cư ở Mỹ, Thi thu xếp bán lại căn nhà ở cư xá Thanh Đa cho một người họ hàng ngoài Bắc vào, đem con về nhà ở với mẹ chờ ngày chồng bảo lãnh.
Giọng Thi uể oải, não nùng:
-         Tụi mày biết sau hơn ba năm định cư bên Mỹ ông Phú gửi giấy gì về cho tao không?
-         ???
-         Đơn xin ly dị bảo tao ký rồi gửi sang cho ông ấy.
-         !!!!!!
-         Tao đau đến tê điếng, mẹ tao buồn vì bà thương và tin tưởng chàng rể, sau khi đi học tập về Phú hay sang chuyện trò với mẹ vợ, bà dốc hết gia sản để lo cho Phú đi...Bà viết thư kể lể sự tình với hai con em tao ở Canada, nhờ chúng nó tìm hiểu.  Con Hương viết thư về nói là đã sang tận nơi để điều tra, Phú đang sống với một người đàn bà khác, đã có một thằng con trai với nhau.
-         Lúc đó mày nghĩ gì? – Hân hỏi.
-         Nghĩ gì nữa! Như vậy là ông đã có sự chọn lựa rõ ràng, muốn dứt khoát với mẹ con tao để chính thức hóa với người ấy. 
-         Mày chịu thua sao?
-         Được? Thua? Tao không nài nỉ van xin.  Khi tình yêu đã hết thì níu kéo làm gì...Đôi lúc tao cũng nghĩ là tại hoàn cảnh đẩy đưa mới ra nông nỗi.  Nếu không vì chuyện đổi đời thì sẽ không có chuyện gì sảy ra đâu.  Tao biết ông Phú cũng là người yếu đuối tình cảm.    Trong lúc xa vợ con, có người chăm nom săn sóc, sa ngã là chuyện thường, ông ấy có phải là bụt đâu.
-         Thế mày là bụt à? – Nguyệt tức tối hộ bạn.
-         Tao chẳng phải là bụt nhưng suy đi nghĩ lại, ông ấy đã có con với người ta, tao lại ở xa...Mày bảo tao phải làm gì?  Đành cho là tại cái số mình không may.  Sau đó ông ấy làm giấy bảo lãnh cho con bé.  Vì tương lai của con tao đành bấm bụng cho nó đi nhưng tao nhờ con Hương đem nó về nuôi, tao không muốn con bé phải chịu cảnh mẹ ghẻ con chồng trong khi tao còn sống.
-         Phục mày thật.  Thế sao mày không sang Canada sống với con mày?  Ở lại VN làm gì?
-         Khi ấy còn mẹ, tao đâu nỡ bỏ cụ mà đi.  Cụ lại không muốn sang Canada vì nghe nói bên đó lạnh lắm, cụ sợ không chịu nổi.  Sau đó nhiều hãng ngoại quốc sang đầu tư,  tao có công việc làm khá nên hai mẹ con sống nương tựa với nhau.  Con bé tao đã học xong, lập gia đình rồi, thỉnh thoảng tao sang thăm nó.
Nghe chuyện Thi bốn đứa thở dài, thương bạn quá lận đận, gian nan.  Nếu hôm nay không từ chính miệng Thi kể ra thì đâu ai biết được những chuyện đau lòng của bạn.  Bề ngoài Thi luôn tươi cười chứng tỏ là con người tự tin, đầy nghị lực. 
Đêm thật khuya, bốn cô nàng xếp như cá hộp trên chiếc giường “king size” bắt đầu thở đều đi vào giấc ngủ. Hân xách một chiếc gối xuống chiếc tràng kỷ kê ngay cuối giường. Qua khung cửa sổ, trời không trăng, những vì sao lấp lánh như những viên kim cương trên tấm vải nhung. Kéo tấm mền mỏng vắt trên đầu trường kỷ, đắp ngang người, Hân nghĩ đến Thi, Nguyệt, Trang, Thư, mới ngày nào năm đứa bỡ ngỡ vào trường, duyên đưa đẩy năm đứa gần và thân, thương nhau, thế mà như những chiếc lá bay đi theo gió, mỗi đưá một hoàn cảnh, mỗi đứa một phương.  Cuối đời có ngày tụ lại như hôm nay qua bao dập vùi, sóng gió.  Nguyệt, Thư, Trang tương đối bình an còn Thi không biết cuối đời sẽ ra sao.  Hân mong Thi đã qua hết chông gai, tìm được một con đường thanh thản cho tâm hồn.  Từ từ Hân chìm vào giấc ngủ với hình ảnh năm người con gái áo trắng tươi cười, tung tăng đi trong lòng đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, nô đùa với những vệt nắng xuyên qua những khe lá trên cao.
ĐỖ DUNG
 


 

BÊN BỜ TỬ SINH

 
 
 
Buổi sáng thứ bảy, mùa hè, bầu trời xanh trong không một gợn mây, màu nắng vàng chanh, gió nhè nhẹ mơn man làn da, mùi thơm của cỏ cây, hoa lá… vương vương, thoang thoảng. Con đường nhỏ uốn lượn nhẹ nhàng, hai hàng cây xanh bên đường đều tăm tắp, một bên hè trống tiếp ráp với những ngọn đồi nhấp nhô nối nhau trải dài, in lên nền trời, bên kia là dãy nhà nằm ngoan ngoãn sau những mảnh vườn được trồng tỉa vén khéo. Hai vợ chồng tôi lững thững đi trong cảnh trí êm lặng, an bình của thành phố nhỏ như còn đang say ngủ.


Tôi mới mổ “cataract” mắt bên phải, tinh nghịch nhắm bên mắt trái, cảnh vật như sáng hẳn ra, những chiếc lá thật rõ nét, óng ánh, rung rinh dưới nắng, những bông hoa tươi hẳn lên reo vui, cảnh vật trong trẻo như được nhìn qua khung cửa kính mới được lau chùi kỹ lưỡng bằng Windex. Nhắm mắt phải, mở mắt trái, vạn vật như qua một lớp sương vàng đục, mờ ảo, nhạt nhòa.

 
Hôm ấy, khi nằm trên bàn mổ ở nhà thương của trường Đại học Stanford, vẫn căn phòng sáng trắng, vẫn những thủ tục thông thường như những lần phải thử nghiệm hay mổ xẻ cần chụp thuốc mê, sao lòng tôi thanh thản không một chút âu lo. Từng giọt thuốc an thần từ túi treo trên cao nhỏ vào mạch máu, tôi chơi vơi, bềnh bồng.

– Bà Nguyễn, bắt đầu nhé!

Tiếng bà bác sĩ nhẹ nhàng thoảng bên tai, mắt tôi tê đi, không cảm giác, chợt hai đốm đen hình vuông hiện ra rồi từ từ một vầng mây màu hồng đỏ, màu đỏ tuyệt vời, bay bay. Một mảng xanh “turquoi” bay lượn trên nền trời xanh trong. Cứ thế những quầng mây màu sắc đẹp chưa bao giờ tôi nhìn thấy nhẹ nhàng bay bay, chơi vơi, chơi vơi…tôi đi vào một vùng an lạc tuyệt vời, như có tiếng gió nhẹ nhẹ, như có tiếng thầm thì và tôi thiếp đi trong cảm giác thật êm ái lạ lùng.

– Xong rồi, bà Nguyễn, bà nghỉ ngơi một chút rồi về nhé. Sáng mai trở lại gặp tôi.

Bà bác sĩ dịu dàng vỗ nhẹ cánh tay tôi, chiếc giường lại được đẩy về chỗ đợi khi sáng.

 
Trong đời, hai lần tôi có niềm sung sướng ấy. Niềm hạnh phúc mênh mông trong tuyệt vời cảm giác, như mê thiếp trong hoan lạc dị thường… Lần đầu tiên sau một buổi tọa thiền, đặt lưng xuống giường, tôi mê đắm trong cảm giác nhẹ nhàng, lâng lâng ấy.

 
– Bố mẹ dậy sớm thế, đi những đâu rồi? Bố mẹ có lên những con đường đi bộ trên núi chưa?

Cô con gái đang tỉa mấy cây hồng trong khu vườn trước cửa ngước lên hỏi khi thấy chúng tôi về.

– Chưa, bố mẹ mới đi quanh đây thôi. Nhà cửa đẹp, không khí thật êm ả, thanh bình. Mai các cháu có đi leo núi, có đi “hiking” nhớ rủ ông bà đi cùng nhá!

Tuần này chúng tôi ở chơi nhà cô con gái, như một kỳ nghỉ hè.

– Mời ông bà vào uống cà phê, ăn tạm một miếng bánh “croissant” rồi chúng con đưa ông bà qua San Francisco chơi.

Tiếng cậu con rể từ trong nhà vọng ra, mùi cà phê tỏa ra thơm ngát.

 
Đã lâu không ghé SF, khung cảnh vẫn như xưa, không thay đổi, bầu trời xám, nhiều mây. Mùa hè vẫn phải mặc áo ấm. Vẫn những chiếc xe điện kêu leng keng, chở du khách thăm thành phố. Con đường Lombart vẫn ngoằn ngoèo và những con dốc dựng đứng làm chùn bước những người lái xe không cứng.  Khu quanh biển vẫn tấp nập khách nhàn du.  Sau khi lái xe một vòng quanh phố, chúng tôi xuống một công viên cho các cháu chạy nhảy, chơi mệt rồi vào phố Tàu ăn mì trong một tiệm khá ngon.

 
Về tới nhà còn sớm các cháu rủ xuống hồ bơi.

– Mẹ mới “surgery”, xuống hồ bơi mẹ cẩn thận nghe.

Cô con gái luôn miệng nhắc vì cháu nghe kể có người sau khi mổ “cataract” không giữ gìn kỹ nên bị thông manh, nhìn mọi vật không rõ nữa.

Mang cặp kính đen to bản của nhà thương cho, tôi nằm trên chiếc phao nổi trong một góc khuất của hồ bơi mặc cho mấy ông cháu chơi đùa. Hai vợ chồng cô con gái lúi húi sửa soạn cho bữa ăn tối ngoài vườn.

Buổi sáng trời không mây, bây giờ vài cụm mây trắng từ đâu tới, lang thang trên bầu trời xanh trong đưa tôi về thời gian mới cách đây vài năm mà tưởng chừng như xa xôi lắm.
 
 
                                                                  ***
 
Một buổi chiều đang ở sở làm tôi lên cơn ho sặc sụa, ho như xé ruột gan, nước mắt chảy ràn rụa, tôi phải xin phép về sớm. Tôi rất ghét đi bác sĩ vì không thích cảnh ngồi dài người chờ đợi nên thường khi bị ho như thế tôi chỉ uống thuốc ho, nhờ nhà tôi xoa dầu nóng khắp châu thân rồi nằm nghỉ. Sau một giấc ngủ dài là khỏe lại ngay. Lần ấy nhà tôi nhất định đưa tôi đi bác sĩ.

 

Sau những khám nghiệm thông thường, bà bác sĩ lấy một dụng cụ nhỏ kẹp vào ngón tay tôi. Đọc kết quả bà thốt lên:

– Bà Nguyễn, bà phải nhập viện ngay. Độ oxygen trong máu bà thấp quá, chưa đến tám mươi phần trăm!

Bà nói nhân viên gọi ngay xe cứu thương. Hai vợ chồng nhìn nhau tê điếng. Trầm trọng vậy sao! Xe cứu thương đến, mọi vật như lao xao và tôi như người mộng du, nằm trên chiếc băng ca, chui vào lòng chiếc xe hụ còi chạy nhanh.

Trong phòng cấp cứu tôi vẫn thảng thốt, mới tuần trước đi Houston ăn Tết với gia đình cô em gái, khỏe mạnh không một triệu chứng nào, bây giờ nằm đây những dây cùng nhợ. Vô thường đến vậy sao!

 
Mỗi ngày y tá đến lấy máu, cứ vài tiếng lại đo nhịp tim, đo huyết áp, đưa tôi chui vào hết máy nọ, máy kia để tìm bịnh. Mấy hôm đó trời chuyển mưa, gần như ngày nào cũng có mưa, có ngày mưa nhẹ, có ngày mưa như vũ bão, gió rít từng cơn. Buổi chiều sau khi tan sở là nhà tôi và cháu út lại đến thăm, ngồi bên giường đến tối mịt mới về. Ban đêm còn lại một mình tôi không tài nào ngủ được, lòng ngổn ngang trăm mối, mệt mỏi thiếp đi thì y tá lại vào để đo nhiệt độ, đo tim, đo máu, lấy máu để thử nghiệm.

 
Tôi còn nhớ như in buổi tối sau khi làm “Angiogram”, nhà tôi và cháu út đang ngồi cạnh giường. Viên bác sĩ đến đã thản nhiên nói:

– Tôi rất buồn, bà Nguyễn, bà vướng phải một căn bệnh hiếm, “Pulmonary Hypertension”, bịnh không chữa được, chỉ đợi thay phổi, thay tim. Bà còn sống hai năm, hãy thu xếp và hãy vui những ngày còn lại.

 
Mặt nhà tôi trắng bệch ra và thằng con cắn môi, dụi mắt để ngăn tiếng nấc. Tôi điếng người nhận bản án tử hình! Tôi có cảm giác mặt tôi như đanh lại và người như tê đi.

 
Buổi sáng hôm sau, ngồi trên chiếc xe lăn rời khỏi bệnh viện. Từ nay tôi là kẻ tàn phế. Mũi lúc nào cũng phải có ống thở oxygen. Tôi thật sự thành người tàn phế!

Sau một tuần mưa gió, hôm ấy trời nắng ấm. Tôi nhớ căn nhà nhỏ của tôi, xa có hơn mười ngày mà tưởng chừng như lâu lắm. Trước nhà, cả dãy Hồng dọc lối đi đầy hoa. Bước ra sân sau thăm khu vườn nhỏ, vạn vật như tươi cười trong nắng.  Cây Apricot hoa chi chít từ gốc đến ngọn, màu hồng dịu dàng như màu hoa Anh Đào của Nhật. Cây Mận đầy hoa trắng xóa trên cành. Cây Đào ăn trái hoa thưa hơn, màu hồng đậm hơn, duyên dáng ở một góc vườn. Bên hông nhà một dàn Nho vòm tròn hình vòng cung, lá non xanh và những chùm nho xinh xinh đã tượng hình. Bao phủ mặt đất từng khoảng cúc tím, cúc vàng nở rộ, những bông “Lily of the Nile” cũng như cố vươn lên mỉm cười với tôi.  Thoang thoảng hương thơm của bụi hoa Nhài trộn lẫn hương hoa Hồng, dàn hoa Hồng với những bông hoa nhỏ xíu bằng đồng hai mươi lăm xu, màu hồng phấn, thơm nhè nhẹ. Hai cây Bông Giấy đỏ thắm quấn quýt hai bên cột “patio”.

 
Bấy giờ là mùa xuân, chim non ríu rít truyền cành. Cảnh đẹp quá, thiên nhiên đẹp quá. Tôi như say với nắng, màu nắng thật ngọt ngào. Tôi như say với gió, làn gió thật thơm tho. Từng phiến lá rung rinh, từng cánh hoa khoe sắc… Trời ơi… cảnh tươi đẹp thế kia, tôi yêu quá… thế mà chỉ hai năm, hai năm là hai mươi tư tháng, là bẩy trăm ba mươi ngày tôi phải vĩnh viễn rời xa. Tôi chỉ còn thời gian ngắn ngủi như thế trên cõi đời này sao… và tôi đã bật khóc.

 
Những chuỗi ngày tiếp theo ủ ê, buồn nản. Ban ngày chỉ còn mình tôi trong căn nhà vắng, đi vào, đi ra… dù sao tôi cũng phải sửa soạn, sửa soạn cho một chuyến đi thật xa, về miền miên viễn. Đầu óc mông lung, nghĩ quẩn nghĩ quanh rồi lại vùi đầu vào gối mà khóc, khóc cho vơi, khóc cho thỏa. Ban đêm giấc ngủ chập chờn với những cơn ác mộng, tỉnh dậy mệt nhoài, trăn trở.

 
Tôi thấy mình như đang đi trên một cánh đồng vắng lặng, hoang vu. Trời xám và hình như lất phất mấy giọt mưa. Đồi núi mênh mông, cỏ mênh mông, những bông cỏ may như bám vào mặt, những ngọn cỏ dại như vướng vào chân. Cảm giác bơ vơ đến tột cùng. Bỗng một đám người từ đâu ùa tới đuổi dồn tôi vào một ngõ sâu hun hút, như một con đường hầm tối đen. Tôi cắm đầu chạy và như hẫng chân, bừng tỉnh, tim đập mạnh, mệt nhoài.

 
Từ ngày ở nhà thương về tôi hay có những cơn ác mộng như thế. Trong cơn mơ tôi thường gặp những đám người đen đúa, bẩn thỉu, không ra mặt người, không ra mặt quỷ chạy đuổi tôi và tôi chạy trối chết cho đến khi hoặc như vấp phải vật gì hoặc vì quá nhược sức tôi ú ớ vùng tỉnh dậy.

Tôi nghe nói khi con người ở bên bờ tử sinh hay nhập nhòa, chập choạng nhìn được cõi bên kia, một thế giới vô hình mà khi mạnh khỏe, dưới ánh mặt trời ta không nhìn thấy. Tôi nhớ hồi mẹ chồng tôi bịnh, đến gần ngày cụ mất cụ hay mê sảng: “Sao ở đâu ra mà lắm người vào nhà mình thế này.  Đuổi đi, đuổi chúng nó đi”.
 


Tôi buốt ruột khi nghĩ đến cha mẹ tôi, hai thân già còm cõi sẽ phản ứng ra sao nếu tôi bất hiếu đi trước, bầy chị em mỗi năm vẫn ríu rít gặp nhau và con, cháu tôi… Tôi sắp phải dời xa tất cả.  Có đêm tôi mơ tôi mặc chiếc áo dài nhung đỏ nằm bình an trong chiếc quan tài, đèn nến lung linh và tôi bay như chim trong bầu trời bát ngát, thoải mái, nhẹ nhàng.

 
Tôi yếu và hốc hác hẳn vì lo buồn, vì khó ngủ, vì nghĩ ngợi lung tung. Ngày nghỉ nhà tôi đưa đi bộ quanh khu nhà ở hoặc ra khu công viên có cỏ hoa tươi tốt cho tinh thần sảng khoái nhưng cứ đi được một quãng ngắn là tôi phải dừng lại thở dốc, lên ba bốn bậc cầu thang tim đã đập thình thịch phải ngừng!

Cho đến một đêm lũ người đó lại đuổi theo tôi, tôi lấy hết sức bình sinh cắm đầu chạy. Những bước chân chạy theo đằng sau dồn dập, như gần, thật gần. Không hiểu sao tôi quay ngoắt lại, nhìn thẳng vào đám người đen đúa, bẩn thỉu đó gằn giọng:

– Sao tụi bay theo tao hoài vậy, có đi đi không?

Rồi tôi lao thẳng tới đuổi lại họ. Họ quay người chạy đi và biến mất. Kể từ lần ấy tôi không nằm mơ thấy mình bị rượt đuổi nữa.

 
Các bạn trong sở chia nhau đến phụ nấu cơm nước và chuyện trò làm tôi vui. Các bạn ở xa biết tin cũng điện thoại hỏi thăm, gửi kinh sách và băng giảng của các Thày. Tôi bắt đầu tập thiền. Cậu em rể đem bài chỉ dẫn cách tập Dịch Cân Kinh bảo tôi cố tập. Hàng tuần tôi phải đi ba bác sĩ, một chuyên về tim, một chuyên về phổi và vẫn phải trở lại bà bác sĩ gia đình. Mỗi tháng phải đến phòng khám bệnh của trường Đại Học UCLA để bác sĩ chuyên môn về bịnh Pulmonary Hypertension điều trị. Tiểu Linh, bạn của cô em tôi, PhD về Đông y, sau khi bắt mạch, khám bịnh có cho một toa thuốc tăng cường thể lực, cân bằng khí huyết và nhìn sắc diện tôi cô nói: “Chị còn vượng lắm, cần nhất là giữ tâm thanh thản và tinh thần vững vàng thì chị sẽ vượt qua.”

Mỗi tối tôi ngồi khoanh chân tập thở. Tôi chưa thể xua đi những tạp niệm, chưa thể lắng tâm tư mình như lóng gạn bình nước táo. Tôi ôn lại cuộc đời tôi từ thuở ấu thơ đến lúc trưởng thành, những vất vả gian nan sau năm 1975 khi chồng phải đi cải tạo, những vinh nhục khi lên voi lúc xuống chó, những ngày lênh đênh trên chiếc thuyền con ra khơi vượt biển, những khó khăn khi một nách hai đứa con thơ phải làm lại từ đầu với hai bàn tay trắng, phất lên rồi thất bại và bây giờ lại mắc căn bịnh hiểm nghèo. Tại sao? Tại sao?? Những câu hỏi cứ dằn vặt trong đầu óc. Có những lúc tôi như ngộp thở rồi lại dằn lòng xuống, tập trung để cố gắng hít vào thật sâu và thở ra thật từ từ.


Nhà tôi là người ít nói lại càng ít nói. Muốn an ủi vợ mà chẳng biết nói sao, chỉ nhắc nhở uống thuốc, chịu khó đưa đi bác sĩ và ái ngại khi thấy tôi ủ dột, buồn phiền. Thằng cháu út ra vào im lìm, không dám làm gì gây tiếng động mạnh, len lén nhìn mẹ xót thương. Thỉnh thoảng tôi bắt gặp nhà tôi ngồi trong xó tối khóc lặng lẽ. Không khí trong nhà thật ảm đạm, thê lương.

 
Nghĩ đến lời nói của ông bác sĩ và khuôn mặt vô cảm của ông ta tôi thật giận và khi đến phòng mạch của ông tôi đã hỏi thẳng:

– Thưa bác sĩ, ông có phải là Thượng Đế không mà ông biết rõ ngày giờ tôi chết? Sao ông có thể nói như vậy với bệnh nhân? Nếu tinh thần người bịnh không vững thì tôi nghĩ họ có thể chết vì lời nói của ông chứ không phải vì căn bịnh.

 
Ông bác sĩ có vẻ không phật lòng còn đem quả tim bằng plastic ra để giảng giải. Ông đưa những tài liệu về căn bệnh này và chịu khó ngồi trả lời những câu hỏi vặn vẹo của tôi. Tóm lại bịnh chưa có thuốc chữa, con người sống nhờ máu đưa oxygen đi nuôi cơ thể, áp suất trong phổi cao nên phổi khó hấp thụ Oxygen, phổi không làm việc tốt thì tim phải làm việc nhiều, phải bơm máu nhiều lần hơn cho đủ lượng oxygen cần thiết và như thế thành của quả tim sẽ dầy ra, to ra, đến một ngày tim sẽ chai cứng, sẽ đình công không làm việc nữa…và ông khuyên tôi phải cắm ống thở vào mũi cả ngày lẫn đêm để tăng cường nồng độ oxygen trong máu cho tim bớt khổ, đợi đến ngày gặp cơ hội có tim phổi sẵn sàng để thay. Bệnh viện ở UCLA đã ghi tôi vào danh sách chờ người cho tim phổi.

 

Trời chớm Thu, gió nhè nhẹ, nắng hanh hanh. Rặng phong hai bên đường đã bắt đầu đổi màu. Sau mấy tháng đã quen, ống thở không làm tôi vướng víu. Giọng nói hiền từ, dịu dàng như người cha già của thầy Thích Thanh Từ qua các băng giảng đã cho tôi hiểu về lẽ vô thường, về lý nhân duyên, về luật nhân quả và nhất là về nghiệp lực của con người qua đời đời kiếp kiếp. Thời kỳ xuống tinh thần đã qua, buổi sáng ra sân sau tập thể thao, ngắm trời đất, cỏ cây, những chiếc lá vàng đã lác đác rơi. Tôi yêu đời nhưng tôi không sợ chết. Ai cũng phải chết, có ai sống hoài. Tôi thấy tôi thật hạnh phúc đã được báo trước chuỗi ngày còn lại, để có thì giờ ngẫm nghĩ về cuộc đời, về thân phận con người. Tôi không còn dằn vặt mình, không còn than trời trách đất. Tôi hết so sánh với các em, các bạn để buồn tủi về định mệnh nghiệt ngã của mình. Sống một ngày vui một ngày, tôi tự nhủ và tôi sẵn sàng đứng dậy như bao lần trong cuộc đời tôi đã từng gục ngã rồi lại cắn răng đứng dậy để vươn lên. Nếu có vướng nghiệp từ muôn kiếp trước thì tôi vui lòng trả cho hết nghiệp trong kiếp sống này và tôi sửa soạn sẵn sàng để ra đi.

 

Tôi vào “Recreation Center” tìm lớp học. Tôi học vẽ, học làm đồ gốm và học trang trí nhà cửa. Tôi có thêm nhiều bạn mới, những người già đã về hưu, những người nội trợ sau khi đưa con đi học thì vào trường. Ngồi trong lớp tôi chăm chú nặn những bình hoa, sáng tạo những vật dụng trong nhà. Tôi khắc những con búp bê Nhật Bản thật là xinh. Rồi những ngày đẹp trời tôi đem giá vẽ ra vườn để đắm mình vào thế giới của màu sắc. Tôi bắt đầu viết văn. Nếu không bịnh tôi có được về hưu sớm và sống thoải mái như thế này không!

Một chị bạn gửi cho hột cải thuốc của Nhật, lá cải tựa như lá rau cải làn bảo gieo hột trồng cây lấy lá ăn tốt lắm. Tôi rắc luôn cả gói, chỉ mấy tháng đã có cải non ăn. Có người bạn khác gửi cho đĩa tập Suối Nguồn Tươi Trẻ. Thế là cứ buổi sáng thì Dịch Cân Kinh và buổi tối thì SNTT. Khi ngồi thiền tôi đã bớt nghĩ ngợi lung tung, hít vào thật sâu và khi thở ra tôi thấy rõ luồng hơi ấm chuyển trong người. Bên cạnh thuốc tây tôi đã uống mấy trăm thang thuốc bắc. Uống thuốc tây nhiều khi chữa được phổi lại hỏng gan. Thuốc bắc gia tăng hệ thống miễn nhiễm và giúp điều hòa khí huyết.

 

Thời gian từ từ trôi, tôi tìm đến bạn thân, đến nơi hội họp. Tôi hết mặc cảm với ống tube oxygen còn đùa giỡn là mình có nữ trang đặc biệt. Trêu chọc ông chồng già của tôi để “cheer him up”. Hết hạn hai năm tôi thấy khỏe khoắn hơn, khi gặp ngài bác sĩ đã phán sau hai năm tôi phải chết, ông ta cười:

– Bà Nguyễn, bà là bệnh nhân tuyệt vời. Bà là bệnh nhân đầu tiên mắc bệnh hiếm này mà không bị tồi tệ hơn. Bà ráng cầm cự thêm vài năm, họ đang nghiên cứu nhiều, hy vọng sẽ tìm ra thuốc tốt để chữa căn bịnh này.

Tám năm đã qua… bây giờ tôi vẫn còn đây!

Đỗ Dung

March 2011


 

 BUỔI CHIỀU TÀ

 
 

Bà Phiên kéo rèm, mở tung hết các cửa sổ cho nắng sớm ùa vào phòng.  Nắng Tháng Ba vàng tươi, trong trẻo.  Đúng là nàng Xuân đã tới, đã xua đi những u ám, xám ngắt của những ngày tháng mùa Đông lạnh lẽo. Bước ra vườn sau, bà vươn vai, hít thật sâu cho không khí trong lành của buổi ban mai tràn vào đầy buồng phổi. Trời đẹp qúa, mấy cây cải Nhật như đang say sưa tắm nắng, cây cối đã hồi sinh.  Những hột kinh giới, tiá tô, húng quế, húng lủi, dấp cá... rơi xuống từ mùa trước nay đã nẩy mầm cho ra những cây con bé li ti.  Những chùm nụ hồng bé tí đã ra đầy trên giàn, mấy cành Quỳnh điểm những nụ hoa xinh xinh bằng đốt ngón tay út. Nhìn qua hàng rào, rặng cây Dogwood sau nhà đơm đầy nụ trắng thanh khiết, gió nhè nhẹ, không gian thoang thoảng thơm như hương hoa Lài, hoa Ngọc Lan. 

Bà Phiên đứng xoay lưng về phiá mặt trời cho mắt khỏi chói và nắng không rát mặt, bắt đầu vẫy tay tập Dịch Cân Kinh.  Bà thủng thỉnh đếm, hết một ngàn cái vẫy, bà ngồi xuống chiếc ghế bành, xoa bóp chân tay. Tiếng ông Phiên vọng ra từ sân trước: “Bà đâu? Bà đâu?”, ông chạy ra sân sau nhìn thấy bà thì hạ giọng thì thào: “Wisteria đã có hoa!”.  Thế là như lò xo bật dậy, bà liú riú theo ông ra ngắm cây Tử Đằng.


Những chồi hoa bằng ngón tay, như những chiếc đuôi chồn nhỏ chi chít bám cành, đong đưa trong nắng như đang cười trêu ghẹo bà Phiên.  Niềm vui thích êm ả, len nhẹ trong lòng khiến bà lâng lâng sung sướng.  Dạo bà mới bịnh, Quy, cô con gái, thương mẹ mua tặng bà một cái computer để bà tiếp xúc với thế giới bên ngoài cho đỡ buồn.  Những vườn hoa Tử Đằng bát ngát hiện ra trên máy khiến bà say sưa.  Bà yêu màu tím từ nhỏ, màu tím của mộng mơ. Những giải hoa tím ngát cả bầu trời đã khiến bà tương tư, bà ước ao sao trong vườn nhà có một giàn phủ đầy hoa đẹp như thế. 


Năm ngoái, khi mới dọn về ngôi nhà này, một hôm khi đi Home Depot để mua thêm vài món đồ lặt vặt, hai cây Wisteria to, cao đứng ở góc vườn khiến bà ngẩn ngơ.  Xe của ông chở không vừa mà ngày thường các con phải đi làm, sao mua được đây!  Cả đêm bà nhớ cây mà ngủ không được, không biết đợi đến cuối tuần thì nó có còn ở đó hay không.


May qúa, hôm sau, Khoa, anh con trai lớn đi làm về sớm ghé thăm xem mẹ mới dọn nhà có cần gì thì giúp. Bà kể chuyện bà sợ có người mua mất cái cây yêu quý của bà thì Khoa bật cười nói ngay: “Mẹ thay quần áo đi, con về nhà lấy xe truck rồi con đến đón mẹ đi mua liền”.  Thế là bà toại nguyện.


Thằng “Củ Khoai” của bà nay đã chững trạc, trưởng thành, đã cho bà ba đứa cháu nội thật xinh và ngoan. Nhớ lại những ngày sau Ba Mươi Tháng Tư năm ấy, cô Phiên còn là một thiếu phụ trẻ, chưa đến ba mươi, gia đình cô kẹt lại, chồng cô phải đi tù cải tạo, bé Quy, con chị  “Củ Mì” hơn ba tuổi, thằng em “Củ Khoai”chưa đầy một năm, hai đứa phải lủn tủn theo mẹ đi bán chợ trời.  Buổi trưa dắt con vào hành lang thương xá Tax, trải miếng vải nhựa cho con nằm, xoa lưng cho con ngủ mà cô tức tưởi, nghẹn ngào.  Ngày trước chỉ có ăn mày mới nằm thế này, vậy mà bây giờ ba mẹ con cô có khác chi họ, cũng lây lất nằm đây. Hết giờ nghỉ trưa, thương xá mở cửa, cô lại thu vén dắt con ra lề đường trải tấm nilon để mua bán tiếp. Bà nội ốm đau, bà ngoại cũng phải bương chải kiếm sống, các dì, cậu còn phải đi học, cô chẳng thể nhờ ai, đành phải tha con theo mình.  Thằng bé ngồi ghế nhỏ đằng trước, con chị ôm lưng mẹ đằng sau và hai bên ghi đông chiếc xe đạp treo hai cái giỏ cói chất hàng hóa mua bán hàng ngày.  Cuối tuần cô mới dám để con ở nhà bà ngoại chơi vì các dì, các cậu nhỏ được nghỉ học.


Những nhọc nhằn, khốn khó rồi cũng qua đi, cũng đến ngày ông Phiên được thả về, hai vợ chồng bà qua những gian truân cũng đưa được hai con đến vùng đất hứa bình an. Sang đây bà lại có thêm cu Lam, thằng con út Trời cho. Cu Lam năm nay đã ba mươi, cu cậu chí thú làm ăn, mua căn duplex xinh xắn này cho cha mẹ ở một bên còn cậu ở một bên với một chàng room-mate cho đỡ tốn tiền nhà.
 
Tiếng ông Phiên đưa bà về thực tại:
 
  • Này bà ơi, cây hồng vàng cũng đầy nụ rồi này.

Bà săm soi, quả thật mấy chùm nụ hoa vàng đã tượng hình, mỗi nụ hoa chỉ to bằng đầu chiếc đinh ghim.  Bà trêu:
  • Mắt nhỏ mà tinh quá ta.  Ông giỏi!
Ông nhún vai, nguýt bà một cái thật dài.
Bà đi thu hoạch, nguyên hái hai cây quất chưng Tết cũng được đầy một rổ, cũng phải vài trăm trái.  Ông xách vòi nước đi tưới cây. Bà vào sửa soạn món điểm tâm và làm đồ ăn để ông đem “đi làm”. Mỗi ngày ông Phiên sang nhà Khoa chơi với các cháu. Quy cũng ở gần đấy nên sau giờ học nhờ ông đón thằng cu út về ở chơi với đám con cậu Khoa. Thằng cháu ngoại lớn nhất chỉ còn hơn một năm nữa là vào đại học, thằng em kế học dưới anh hai lớp nên hai đứa có thể tự túc đi bộ về nhà. Sau bữa ăn sáng bà sửa soạn bữa ăn trưa cho các cháu rồi bà tiễn ông đi.
 
Nằm đu đưa trên chiếc võng trong bóng rợp của vườn sau bà thả hồn về dĩ vãng, nhớ đến nhóm bạn Trưng Vương thời áo trắng.  Những cô nữ sinh chuyên môn bát phố vào buổi trưa.  Năm Đệ Nhất học buổi sáng nhưng đôi khi phải học thêm buổi chiều nên cả lũ ở lại trường, rủ nhau đi bộ, vào hẻm Casino ăn bún chả, bánh cuốn rồi tà tà bước sang góc đường Lê Lợi – Pasteur, nơi có nước miá Viễn Đông, đu đủ bò khô, bò biá, lại còn khay phá lấu của ông Tầu, những miếng phá lấu thái miếng nhỏ vừa ăn, cắm sẵn vào những que tăm, mấy đứa đứng xúm xít vòng quanh, hào hứng lấy từng que, chấm tương ớt, bỏ vào miệng mà hít hà, sau đó cứ đếm tăm trả tiền. Vòng trở lại mé chợ Bến Thành, các cô làm thêm một ly đậu đỏ bánh lọt hay sâm bổ lượng.  Thật là ngon rên mé đìu hiu.  Bụng no căng các cô đi bộ trở lại Lê Thánh Tôn, khúc khích, rúc rích đùa giỡn với nhau trên con đường rợp mát bóng me xanh để trở về trường. Sau Tú Tài mỗi người một phương, đứa học môn này, đứa theo môn nọ, lại có cô lấy chồng, theo chồng đi xa. Rồi tiếp đến ngày đổi đời năm bảy lăm, thêm một lần tan tác.


Cứ thế liên tiếp bà nhớ lại chuyện này, chuyện nọ, chuyện những vất vả gian nan khi vượt biển rồi những khó khăn chật vật lúc đầu nơi xứ người.


Thấm thoắt mấy chục năm trôi qua, biết bao thăng trầm, bão tố. Bây giờ bà đã gần bẩy mươi, ngồi đây trong khoảng không gian tĩnh lặng tuyệt vời cuả một buổi sáng muà Xuân.  Không gian là của bà, thời gian là của bà.  Thỉnh thoảng tiếng kêu chíp chíp của những con chim nhỏ hay tiếng quàng quạc của những cánh chim đen bay chuyền cành  trên cây cổ thụ bên nhà hàng xóm.


Bà đang ở tuổi hoàng hôn của cuộc đời, nắng đang từ từ tắt.  Đến một lúc bà hiểu ra lẽ vô thường của vạn vật, không có gì là trường tồn, vĩnh cửu.  Bà đã buông bỏ tất cả để vui những ngày ngắn ngủi còn lại trên cõi đời này. Với bà bây giờ còn mảnh vườn nhỏ cho bà chăm bón, vài tháng nữa cây cối sẽ vươn lên, bà sẽ vuốt ve, chuyện trò với chúng, hạnh phúc nhìn chúng từ từ lớn lên. Những buổi sáng bà sẽ đi bộ quanh vùng, thảnh thơi ngắm nhìn hoa thơm, cỏ dại, tận hưởng những phút giây êm đềm của hiện tại.  Ba đứa con của bà đã có cơ ngơi vững vàng, cuộc sống gia đình hạnh phúc, bà không phải quan tâm đến chúng nữa. Những ngày cuối tuần thỉnh thoảng bà nấu bữa ăn ngon gọi con cháu về quây quần cho bà nghe tiếng cười ríu rít trẻ thơ.  Những ngày nghỉ hè ông bà theo con cháu ra biển hay vào rừng ở những nơi hoang dã, xa lánh trần thế, sống gần thiên nhiên.  Bà sẽ cùng ông ngắm trăng trên biển, nhìn ánh trăng lao xao trên mặt nước hay thanh thản đi bộ bên nhau dọc theo bờ cát.


Hai con khỉ già hơn bốn chục năm sống có nhau, đúng là chia ngọt sẻ bùi.  Những lúc nhìn ông lụ khụ, nhìn bà già yếu bà cũng bùi ngùi nghĩ đến lúc chia tay.  Ai đi trước, ai còn ở lại với vai trò chiếc đũa lẻ. Nhưng rồi bà lại nghĩ sinh tử là chuyện đương nhiên, có ai sống hoài, ai cũng phải một lần ra đi. Lo nghĩ trước làm chi, cứ vui với những gì đang có trong tầm tay, ở đây, bây giờ, hôm nay.


Cứ nghĩ rồi bà lại tìm cách trút bỏ những bợn nhơ, vướng bận của cuộc đời, buông hết đi những bi lụy để chỉ còn cái tâm trong sáng.  Những vạt nắng chiều không trong trẻo, tinh khôi như nắng sáng nhưng ngọt như mật và rồi nắng cũng sẽ tàn, sẽ tắt  khi mặt trời xuống dần, khuất hẳn sau rặng đồi phía xa. Nhìn lên trời xanh thăm thẳm, bà Phiên yêu quá cuộc đời này.


Đỗ Dung


TÌNH GIÀ

 
 
Năm nay trời đất lạ lùng, khí hậu thật kỳ quặc. Tuần lễ trước tết mưa gió liên miên, hai ngày đầu năm trời âm u, xám ngoét và sũng nước. Trời nóng lạnh, thay đổi bất thường nên gần như nhà nào cũng có người bịnh, không ốm nặng cũng cảm mạo, ho hắng.

Đêm Rằm Tháng Giêng, bà Phiên kéo màn cửa sổ tìm trăng. Thường những đêm trăng sáng bà có thú nhìn lên bầu trời cao để tâm hồn bềnh bồng, phiêu lãng vào những kỷ niệm êm đềm xa xưa. Đêm nay trăng bị khuất trong lớp mây mù dày đặc, trời tối đen như đêm ba mươi. Tiếng mưa rơi tí tách, không nhẹ nhàng lất phất như mưa xuân. Ông bà nằm cùng giường mà mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Bà bịnh gần hai tuần nay, bị cúm hành tả tơi, mặc dù hai ông bà đã cẩn thận năm nào cũng đi chích ngừa từ Tháng Mười Một. Hôm nay bà đã đỡ thì lại đến phiên ông.

Ông kêu lạnh, mặc bốn lớp áo, khăn len quấn cổ, đầu đội mũ mà vẫn kêu lạnh. Bà phải vặn cái lò sưởi nhỏ trong phòng, hướng về phía ông mà ông vẫn thấy lạnh và lên cơn ho như xé phổi.

Bà nhỏm dậy lục tủ đầu giường lấy lọ dầu Bảo Tâm An.

– Để tôi xoa dầu cho ông nhá!

– Bà xoa hai gan bàn chân cho tôi được rồi, khỏi phải xoa ngực, lưng. Tôi mặc đủ áo ấm.

– Xoa dầu để chà sát cho máu huyết lưu thông, người nóng lên từ bên trong mà.

Ông Phiên ngoan ngoãn để bà chà sát trước ngực và hai bên cánh phổi sau lưng rồi đến hai bàn chân. Tạm êm, không thấy ông ho nữa.

Bà nằm lim dim nghĩ đến mấy đứa cháu. Thằng Thiên Ý cũng đang ho, con Minh Uyên cũng đang cảm, hai đứa nước mũi chẩy ròng ròng. Hôm nay thấy mắt chúng nó đã hơi đỏ và kèm nhèm đổ ghèn, bà định mai phải bảo bố mẹ chúng nó đưa đi bác sĩ. Ở nhà bà chỉ xoa dầu rồi cho uống Tylenol, trẻ con phải cho đi khám bịnh ngay xem sao, không để ốm lâu mất sức.

Chợt cánh tay ông quàng qua người bà.

– Mình ơi…Anh thương mình quá!

– ???

– Anh đi trước không biết mình ra sao!

– Ơ hay, sao hôm nay ông lẩm cẩm thế! Mọi khi tôi đòi chết trước thì ông nhất định giành đi trước mà.

– Cuộc đời ngắn ngủi quá phải không mình!

Giọng ông Phiên như nghẹn lại, hai giọt nước mắt âm ấm cũng ứa ra khóe mắt bà. Nhớ khi bà vừa qua cơn bịnh nặng, các con đưa ông bà đi du thuyền chơi cho khuây khỏa. Một đêm đang nằm ngủ trên tàu, ông nằm mơ, kêu ú ớ:

– Đừng bỏ anh, đừng bỏ anh!

Bà lay ông dậy, quay qua thấy vợ đang nằm bên cạnh, ông ôm chặt lấy bà.

– Anh mới bị ác mộng. Em chạy đi, em bay đi, anh cố chạy đuổi theo em.

Sáng hôm sau bà còn trêu ông:

– Chắc lại nhớ cô nào rồi chứ gì? Lâu quá mình đâu có xưng hô anh em đâu nào.

Hai ông bà lấy nhau đã hơn bốn mươi năm. Ông nhớ hình ảnh cô nữ sinh bé bỏng ông theo đuổi, yêu thương ngày đó, những cảm động của đêm tân hôn, những ngọt ngào của tuần trăng mật rồi đến nỗi nhớ quắt quay của ông trong những năm tháng dài trong trại cải tạo. Bao nhiêu kỷ niệm, vui có, buồn có cứ ùn ùn kéo về.

Hai ông bà nhắc nhau, ôn lại những chuyện cũ rồi từ từ tiếng ông thở đều, rồi ông thản nhiên kéo gỗ. Bà khó ngủ hơn ông, nhất là khi có chuyện gì bận rộn trong đầu. Bà thao thức có khi thâu đêm.

Vợ chồng như đũa có đôi, từ ngày lấy nhau gần như hai ông bà không hề xa cách, trừ những năm ông phải đi tù cải tạo. Đến khi về hưu, sau sự mất mátmát những người thân trong gia đình, rồi đến sự ra đi của những người cùng trang lứa, ông bà biết lẽ vô thường, biết rằng sinh tử là chuyện phải đến nên cũng đã sửa soạn cho đời sống tâm linh, sửa soạn cho cuộc hành trình cuối cùng được thanh thản, nhưng chưa bao giờ nghĩ đến vấn đề còn chiếc đũa lẻ.

Đêm sâu, bên tiếng ngáy mệt nhọc của ông, bà trăn trở. Nghĩ đến hoàn cảnh những người trong hội già mà thỉnh thoảng bà đến họp. Bà cụ Tiến có cả đàn con mà cụ ông mất mấy năm rồi, cụ bà vẫn sống một mình vò võ. Các con cụ rất hiếu thảo, ngoan ngoãn. Cụ có bẩy người con, hai cậu con trai lấy vợ Mỹ nên dĩ nhiên cụ không hợp vì bất đồng ngôn ngữ, khác xa về phong tục, tập quán. Mẹ chồng con dâu gặp nhau chỉ “hi, hello” cho phải phép rồi thôi. Cả hai cặp đều chủ trương không sanh nở vì ngại trách nhiệm và sợ không lo nổi cho con cái. Thế mà một cặp thì nuôi cả bầy chó còn một cặp thì nuôi mấy con mèo để mà ẵm bồng, hôn hít. Năm cô con gái của cụ đều học hành thành đạt, gia đình êm ấm, hạnh phúc, cô nào cũng có một, hai đứa con. Khi cụ ông mới mất, cả năm cô đều mời mẹ về ở cùng, cụ nhất định không chịu, cụ yêu căn nhà kỷ niệm của cụ, nhà đã trả hết nợ và khu vườn hai cụ chăm bón mấy chục năm nay cụ không thể rời xa. Dạo này cụ bắt đầu yếu, đi đứng lọm khọm, các con họp nhau lại bàn là mỗi cô sẽ soạn một phòng riêng để cụ sẽ luân phiên ở với mỗi cô vài tháng, khi chán lại sang nhà con khác. Cụ cũng thử đi một vòng nhưng cụ nói nó thế nào ấy, ở đâu cũng lang thang như người ở trọ. Nhà cụ vẫn quen, chỗ để ống tăm, chỗ để lọ thuốc cụ biết rõ, vào bếp muốn lấy cái muỗng, đôi đũa biết ngay nó ở đâu, ở nhà các con mỗi đứa sắp một kiểu, muốn lấy cái gì thì mở hết ngăn này đến ngăn khác mới tìm thấy. Cụ còn than già rồi ăn ít nhưng hay ăn vặt, ở nhà con cứ xuống lục tủ lạnh hoài sợ rể nó cười, sợ cháu nói bà ăn vụng. Các bà bạn chỉ biết phì cười vì những chuyện cụ kể và nói cụ có phúc mà không biết hưởng hạnh phúc mình có. Có thể chỉ vì trong thâm tâm cụ vẫn nghĩ theo kiểu cổ xưa, con trai mới là người để nương cậy lúc tuổi già. Ở với con gái cụ vẫn có mặc cảm với con rể và mấy người thông gia. Chắc đến lúc cụ yếu đuối hẳn, khi lúc nào cũng cần phải có người ở gần bên, cụ mới thay đổi ý kiến, đổi quan niệm sống. Phần đông các ông bà khác thường than thở vì con, vì cháu, ở bên này mọi người bận rộn chả ai để ý đến ai, ở với con trai thì ngại con dâu, ở với con gái thì sợ phiền con rể.

Bà Quý thì mong cháu, gần bẩy mươi mà chưa có cháu để ẵm bồng, hủ hỉ. Hồi còn đủ cả hai ông bà thì bà thấy không cần thiết. Khi về hưu ông bà đi chơi khắp nơi, mỗi năm đi du lịch thế giới mấy phen, không kể những chuyến đi chơi gần với mấy người bạn thân. Bây giờ còn một mình, bà Quý mới thấy thèm tiếng nói cười ríu rít trẻ thơ. Bà ước ao hai con trai của bà sanh cho bà vài đứa cháu nội, bà sẽ biến căn nhà của bà thành nhà trẻ, bà sẽ thuê người phụ với bà chăm sóc các cháu, bà sẽ không thiết đi đâu nữa.

Còn một số ông bà khác lẻ bạn thì đi tìm người cũng cô đơn như mình để chia sẻ buồn vui. Các ông bà cho rằng cùng một lứa mới hiểu được nhau, tuổi trẻ không cảm thông được, đừng trông mong gì nhiều ở con cái thì sẽ không có những thất vọng đớn đau.

Như có tiếng sột soạt ở phòng khách, bà xích lại gần ông như tìm sự che chở. Eo ôi, nếu ở một mình bà sẽ sợ lắm. Từ khi lấy chồng, bà chưa bao giờ ngủ một mình, không có chồng thì có con, có cháu. Thôi thôi, không dám nghĩ tiếp nữa, bà cố dỗ giấc ngủ.

Buổi sáng ông dậy sớm, thấy bà đang ngủ ngon, hơi thở đều, tiếng ngáy nhè nhẹ. Qua khung cửa sổ, trời đã rạng sáng, quang đãng, hứa hẹn một ngày nắng đẹp. Ông vươn vai, cảm giác ốm đau như biến mất. Ông chịu khó tập thể dục đều đặn, đi bộ đều mỗi buổi sáng và ăn uống rất chừng mực nên ông vẫn giữ được thân hình rắn rỏi so với những người cùng tuổi với ông. Bước ra sân sau, ông thấy hơi đói bụng, làm những động tác thể thao thông thường rồi ngồi đọc sách, chờ bà dậy để cùng uống cà phê và ăn điểm tâm buổi sáng.

Ông sẽ làm gì khi không còn bà ở cạnh? Bà sẽ ra sao nếu ông đi trước? Nghĩ đến bà, ông lại thương, dù gì bà cũng đã hơn sáu mươi, chắc chắn bà sẽ không đi bước nữa nhưng ông biết tính bà hay nghĩ ngợi, lại dễ tủi thân, không có ông, ai che chở, ai bênh vực bà? Con cái thương mẹ, dâu rể cũng ngoan ngoãn biết điều, nhưng tuổi trẻ hay vô ý, vô tứ dễ làm con người nhạy cảm như bà bị tổn thương.

– Ông dậy sớm thế? Khỏe hẳn chưa mà đã ra vườn?

Tiếng bà từ trong nhà nói vọng ra.

– Mấy ngày mưa gió, xám xì, hôm nay có nắng, bà ra ngồi hong nắng chút cho khỏe.

– Ông ăn gì nào? Cơm trứng hay bánh mì trứng?

– Cái gì cũng được!

– Ăn trong nhà hay ăn ngoài vườn?

– Ngoài này đi, lâu lắm mới có một ngày nắng ấm.

Một lúc sau bà khệ nệ bưng một khay với hai đĩa cơm trứng nóng hổi còn bốc khói và hai tách cà phê.

Một đàn bò đang thủng thỉnh nhai cỏ trên ngọn đồi sau nhà. Cảnh thật yên tĩnh, thanh bình.
Bà nhìn ông, mái tóc bạc phơ như những sợi tơ óng ánh trong nắng. Một tuần nữa là đến ngày Valentine, bà đã đặt một tấm hình hai người trong tuần trăng mật ở Đà Lạt in vào “canvas” để tặng ông, không biết ông có nhớ ngày này không và ông sẽ mua tặng bà cái gì. Hồi còn ở Việt Nam, hàng năm cứ vào đúng kỷ niệm ngày cưới là ông lại nhớ mua cho bà một bó hồng nhung. Sau bảy lăm, những xa hoa phù phiếm ấy bị loại bỏ. Khi ông đi tù cải tạo về, ngày kỷ niệm của vợ chồng, bà chỉ nấu nồi bún riêu hay làm bữa bún chả cho cả nhà ăn mà cũng chẳng nói lý do. Năm 1980, khi vượt biên sang đây, ngày lễ Valentine đầu tiên, ông đã ra vườn của cô em hái cho bà hai chùm hoa đuôi chồn màu đỏ. Những năm sau đó ông luôn nhớ nhưng chỉ đem về cho bà một đóa hoa hồng. Cho đến khi ông bà về ở với con cháu thì ông mua hộp chocolate to tướng để cả mấy bà cháu cùng ăn.

Nhớ lại chuyện đêm hôm qua, bà nắm lấy tay ông nói nhỏ:

– Ông đừng lo việc của Ông Trời. Chúng mình còn có nhau, bên nhau đến ngày hôm nay thì hãy vui những ngày còn lại. Đến đâu hay đến đó… hơi sức đâu mà lo… Quan trọng nhất là cái tâm thanh thản, an vui ngày hôm nay.

Ông siết tay bà, nhìn bà và trong lòng nhủ thầm, Valentine này phải mua tặng bà một bó hoa hồng thật đẹp.

Đỗ Dung